Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bản án số: 05/2020/HSPT Ngày: 03/01/2020

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Ngôn Các Thẩm phán: 1. Ông Phan Văn Liệt

2. Ông Bùi Đức Nam

Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Thăng – Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Thuận – Kiểm sát viên

Ngày 03 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công Ki vụ án hình sự thụ lý số: 526/HSPT ngày 02/12/2019 đối với bị cáo Nguyễn Kinh K do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 297/2019/HS-ST ngày 17/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Kinh K; Sinh năm: 1993 tại tỉnh Cà Mau; Thường trú: ấp Q, xã W, huyện E, tỉnh Cà Mau; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Tiếp thị; Con ông Nguyễn Văn C và bà Tô Thị G; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 16/01/2019- Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10/2018, tại quán karaoke Nice, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Trí T và Ngô Văn Đ xảy ra mâu thuẫn cá nhân, dẫn đến xô xát với nhau. Sau đó, Đ thỉnh thoảng kiếm T để gây sự.

Khoảng 19 giờ, ngày 13/01/2019, Ngô Văn Đ cầm theo một con dao bằng kim loại dài khoảng 25cm và rủ anh Võ Văn B, Nguyễn Tuấn A, “P ói” (chưa rõ lai lịch) đi qua phòng trọ của Phạm Trí T tại số 14/6 KT3, ấp Tân Hòa, phường

H, thị xã D, tỉnh Bình Dương tìm T để chém nhưng không gặp T mà gặp Nguyễn Kinh K là em bà con với T. Sau khi nhóm của Đ đi về, K kể lại sự việc cho T và Trương Trí N là bạn của K nghe. Nghe xong, N nói T và K qua đánh nhóm của anh Đ trả thù, thì K và T đồng ý. Liền đó, N rủ thêm 03 người bạn của N (chưa rõ lai lịch) mang theo dao tự chế đến gặp K và T trước nhà trọ của T. Tại Đ, N cầm 01 con dao tự chế và đưa cho K 01 con dao tự chế dài khoảng 50cm, cán dao bằng gỗ dài khoảng 10 cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 40 cm để chuẩn bị đi đánh Đ.

Khoảng 21 giờ, ngày 13/01/2019, N điều khiển xe Nouvo (không rõ biển số) chở bạn của N, bạn của N điều khiển xe mô tô Sirius (không rõ biển số) chở 02 bạn của N và K ngồi sau cùng cầm theo dao tự chế đi tìm nhóm Ngô Văn Đ để đánh. Còn Phạm Trí T lên xe ô tô hiệu Innova (không rõ biển số) do Nhân (chưa rõ lai lịch) cùng một người thanh niên đầu trọc (chưa rõ lai lịch) chở T đến trước nhà trọ anh Đ, thì T xuống xe để cùng nhóm K, N đánh anh Đ. Lúc này N, bạn N và K đi trước đến hẻm nhà của Đ thì K cầm dao theo N và bạn của N xông vào phòng trọ số 3, nhà trọ số 124 Lê Văn Chí, khu phố 5, phường L Trung, quận Thủ Đức. Thấy vậy Đ, Võ Văn B và B ói, chạy trốn trong nhà vệ sinh, Bùi Vương L chạy ra đóng cửa phòng thì bị N và bạn N chém bể cửa kính phòng trọ và thọc dao vào nên L buông tay thì bị bạn của N chém gây thương tích. K, N cùng một người bạn của N xông vào nhà vệ sinh chém Đ và T gây thương tích (riêng “B ói” núp ở phía sau không bị chém), K dùng dao chém vào chân T nhưng không trúng, rồi quay sang chém 01 nhát vào chân và đâm vào phần đùi trái của Đ. Sau đó cả nhóm bỏ chạy ra ngoài tẩu thoát thì gặp T vừa đến nên N kêu T chạy trốn đi. K đưa dao cho N giữ và bỏ trốn về tỉnh Đắk Nông, T trốn về Tây Ninh. Còn Đ, T và L được quần chúng đưa đến Bệnh viện cấp cứu.

Ngày 16/01/2019, Nguyễn Kinh K bị bắt khẩn cấp. Ngày 01/4/2019, Phạm Trí T đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức đầu thú. Còn Trương Trí N bỏ trốn.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức, Phạm Trí T, Nguyễn Kinh K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

- Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 75/TgT.19 ngày 30/01/2019 của Trung tâm pháp y Sở Y Tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích Bùi Vương L:

+ Vết thương hông sườn phải gây đứt lóc da, cơ thành bụng, thấu vào ổ bụng, không tổn thương tạng, đã được điều trị khâu phúc mạc, khâu cơ và vết thương, hiện còn vết thương kích thước 20x0,1cm tại vùng hông sườn phải (ảnh 1), có tỉ lệ 14% .

+ Vết thương mặt sau ngoài cánh tay trái gây đứt da, đứt cơ delta, cơ tam đầu, đứt bán phần thần kinh quay, đã được điều trị khâu cơ, khâu thần kinh, khâu vết thương, hiện còn vết thương chưa cắt chỉ tại cánh tay (ảnh 2.1, 3.1) kích thước 29x0,1cm, hạn chế duỗi bàn ngón tay trái, có tỉ lệ 20%.

+ Vết thương mặt sau, ngoài 1/3 dưới cẳng tay phải gây đứt da, đứt gân duỗi cổ tay quay, rách động mạch quay, đứt thần kinh quay, đã được điều trị khâu động mạch, thần kinh, khâu gân và vết thương, hiện còn: một vết thương chưa cắt chỉ kích thước 11x0,1cm tại cẳng tay (ảnh 4). Hạn chết vận động dạng ngón cái và duỗi bàn ngón tay. Có tỉ lệ 17%.

+ Hai vết thương phần mềm đã được điều trị, hiện còn các vết thương chưa cắt chỉ tại: Sau hố nách trái kích thước 6x0,1cm (ảnh 2.2; 3.2) ổn định. Mặt trước đùi phải kích thước 5x0,05cm (ảnh 5) ổn định. Có tỉ lệ 02% (Hai phần trăm) mỗi vết. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

Cộng lùi các tỉ lệ trên sẽ ra tỉ lệ 45% (Bốn mươi lăm phần trăm). Tỉ lệ tổn thương cơ thể của anh Bùi Vương L do thương tích gây nên hiện tại là 45%.

- Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 76/TgT.19 ngày 30/01/2019 của Trung tâm pháp y Sở Y Tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích anh Ngô Văn Đ:

+ Vết thương từ mặt sau ngoài cánh tay xuống mặt ngoài khuỷu tay và mặt ngoài 1/3 trên cẳng tay trái gây đứt da, đứt gân cơ tam đầu, gân cơ cánh tay quay, đứt bán phần kinh quay, mẻ xương quay (ảnh 1), đã được điều trị khâu thần kinh, gân cơ, khâu vết thương, hiện còn: Vết thương chưa cắt chỉ kích thước 23x0,1cm tại cánh, cẳng tay (ảnh 2). Không duỗi được bàn ngón tay trái. Có tỉ lệ 22%. Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra.

+ Hai vết thương phần mềm đã được điều trị, hiện còn các vết thương chưa cắt chỉ: Tại mặt sau 1/3 dưới cẳng tay trái kích thước 3x0,1cm (ảnh 3). Tại mặt sau ngoài 1/3 giữa đùi trái kích thước 2,5x0,1cm (ảnh 4). Có tỉ lệ 02% (Hai phần trăm) mỗi vết. Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra.

Cộng lùi ba tỉ lệ trên sẽ ra tỉ lệ 25,08%, làm tròn số sẽ là 25% (Hai mươi lăm phần trăm). Tỉ lệ tổn thương cơ thể của anh Ngô Văn Đ do thương tích gây nên hiện tại là 25%.

- Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 74TgT.19 ngày 30/01/2019 của Trung tâm pháp y Sở Y Tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích anh Võ Văn B:

+ Vết thương mặt trước cổ tay và lòng bàn tay trái gây đứt da, đứt gân gấp nông sâu các ngón, gân gấp cổ tay trụ, động mạch trụ, thần kinh giữa, đã được phẫu thuật nối gân, nối thần kinh, hiện còn: Vết thương còn chỉ tại cổ bàn tay trái kích thước 11x0,1cm (ảnh). Phù nề, tê bàn tay, hạn chế vận động các ngón tay.Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra.

Tỉ lệ tổn thương cơ thể của anh Võ Văn B do thương tích gây nên hiện tại là 16%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 297/2019/HSST ngày 17/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kinh K phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm c, d khoản 3 (thuộc trường hợp điểm a, 1 khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kinh K 06 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày: 16/01/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên phạt bị cáo Phạm Trí T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Về phần dân sự, Bản án sơ thẩm đã tuyên:

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 590; Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sụ năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Kinh K, Phạm Trí T liên đới bồi thường cho các bị hại (trách nhiệm theo phần), cụ thể bồi thường cho anh Võ Văn B số tiền

70.000.000 đồng (mỗi phần 35.000.000 đồng), anh Ngô Văn Đ số tiền

95.600.000 đồng (mỗi phần 47.800.000 đồng) và anh Bùi Vương L số tiền 123.599.000 đồng (mỗi phần 61.799.000 đồng).

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ của người phải thi hành án phần dân sự phải chịu tiền lãi nếu chậm trả tiền bồi thường, tuyên về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/10/2019 bị cáo Nguyễn Kinh K có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo K vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nêu trên và bổ sung nội dung kháng cáo, đề nghị xem xét lại phần dân sự về việc buộc bị cáo phải bồi thường cho các bị hại. Bị cáo cho rằng Bản cáo trạng có nêu bị hại bãi nại cho bị cáo mà Tòa án cấp sơ thẩm vẫn buộc bị cáo bồi thường cho bị hại nên bị cáo không đồng ý.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà bị cáo thực hiện và cho rằng:

Bị cáo Nguyễn Kinh K bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 06 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho 02 bị hại.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Kinh K có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo K bổ sung nội dung kháng cáo đề nghị xem xét lại việc buộc bị cáo phải bồi thường cho các bị hại là không đúng vì theo như Bản cáo trạng thì các bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường và đã bãi nại cho bị cáo.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy:

Bị cáo Nguyễn Kinh K và đồng bọn xem thường pháp luật, liều lĩnh gây thương tích nghiêm trọng cho Ngô Văn Đ tỷ lệ thương tật 25%, Bùi Vương L tỷ lệ thương tật 45%, Võ Văn B tỷ lệ thương tật 16%, cho nên Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xét xử bị cáo theo điểm c, d khoản 3 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1) Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở.

Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mức hình phạt 06 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin được giảm hình phạt, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, để có thể xem xét giảm nhẹ hơn nữa hình phạt tù cho bị cáo.

Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kinh K mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kinh K phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm c, d khoản 3 (thuộc trường hợp điểm a, 1 khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Kinh K 06 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày: 16/01/2019.

Về phần dân sự:

Bị cáo cho rằng theo Bản cáo trạng thì các bị hại bãi nại không yêu cầu bị cáo bồi thường là không có cơ sở. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo K và đồng bọn là bị cáo Thức đều đồng ý bồi thường cho các bị hại, theo yêu cầu của các bị hại, biên bản phiên tòa sơ thẩm ghi rất rõ. Vì vậy, bản án sơ thẩm buộc bị cáo và đồng bọn bồi thường cho các bị hại là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu kháng cáo bổ sung của bị cáo về vấn đề dân sự, giữ nguyên việc bồi thường như Bản án sơ thẩm đã tuyên.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Kinh K khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đồng thời cũng đề nghị xem xét lại việc buộc bị cáo phải bồi thường.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thủ Đức,

Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo Nguyễn Kinh K phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo K 06 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù.

Về phần dân sự:

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 590; Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sụ năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Kinh K, Phạm Trí T liên đới bồi thường cho các bị hại (trách nhiệm theo phần), cụ thể bồi thường cho anh Võ Văn B số tiền

70.000.000 đồng (mỗi phần 35.000.000 đồng), anh Ngô Văn Đ số tiền

95.600.000 đồng (mỗi phần 47.800.000 đồng) và anh Bùi Vương L số tiền 123.599.000 đồng (mỗi phần 61.799.000 đồng).

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ của người phải thi hành án phần dân sự phải chịu tiền lãi nếu chậm trả tiền bồi thường, tuyên về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/10/2019 bị cáo Nguyễn Kinh K có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo K vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt và bổ sung nội dung kháng cáo, đề nghị xem xét lại phần dân sự về việc buộc bị cáo phải bồi thường cho 02 bị hại. Bị cáo cho rằng Bản cáo trạng có nêu bị hại bãi nại cho bị cáo mà Tòa án cấp sơ thẩm vẫn buộc bị cáo bồi thường cho bị hại là không đúng pháp luật nên bị cáo không đồng ý.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:

Bị cáo Nguyễn Kinh K và đồng bọn chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà xem thường pháp luật, liều lĩnh gây thương tích nghiêm trọng cho Ngô Văn Đ tỷ lệ thương tật 25%, Bùi Vương L tỷ lệ thương tật 45%, Võ Văn Tài tỷ lệ thương tật 16%. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm c, d khoản 3 (thuộc trường hợp điểm a, 1 khoản 1) Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo 06 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có công với cách mạng, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại và bị hại có đơn bãi nại cho bị cáo để áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ

sung năm 2017 là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Kinh K không xuất trình thêm tình tiết nào mới để Hội đồng xét xử có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Kinh K là phù hợp.

Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kinh K, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo K.

Về phần dân sự:

Xét kháng cáo bổ sung của bị cáo Nguyễn Kinh K về phần dân sự, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo K cho rằng theo nội dung Bản cáo trạng thì 03 bị hại đã bãi nại cho bị cáo, nhưng tòa án cấp sơ thẩm vẫn buộc bị cáo phải liên đới bồi thường cho 03 bị hại là không đúng pháp luật.

Xét thấy tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo và 03 bị hại đều có mặt, những bị hại này đều yêu cầu bị cáo phải bồi thường, bị cáo đã đồng ý bồi thường, Biên bản phiên tòa sơ thẩm ghi rõ nội dung yêu cầu bồi thường của bị hại. Vì vậy, Bản án sơ thẩm buộc bị cáo bồi thường cho các bị hại là có đầy đủ căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo kháng cáo bổ sung về phần dân sự, nhưng không có chứng cứ nào mới để chứng minh việc buộc bị cáo liên đới bồi thường cho 03 bị hại là không đúng pháp luật. Vì vậy, không chấp nhận kháng cáo bổ sung của bị cáo mà giữ nguyên Bản bán sơ thẩm về phần dân sự, buộc bị cáo phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho cả 03 bị hại như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Kinh K phải chịu án phí hình sự phúc thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

  • Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự:

    Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Kinh K; giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

  • Căn cứ điểm c, d khoản 3 (thuộc trường hợp điểm a, 1 khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Kinh K 06 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù, về tội “Cố ý gây. Thời hạn tù tính từ ngày: 16/01/2019.

Về phần dân sự:

- Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 590; Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Kinh K, Phạm Trí T liên đới bồi thường cho các bị hại (trách nhiệm theo phần), cụ thể bồi thường cho anh Võ Văn B số tiền

70.000.000 đồng (mỗi phần 35.000.000 đồng), anh Ngô Văn Đ số tiền

95.600.000 đồng (mỗi phần 47.800.000 đồng) và anh Bùi Vương L số tiền 123.599.000 đồng (mỗi phần 61.799.000 đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án nếu người phải thi hành án chưa trả số tiền nêu trên, thì người phải thi hành án còn phải trả tiền lãi của số tiền gốc chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo phải nộp 7.299.975 (bảy triệu hai trăm chín mươi chín ngàn chín trăm bảy mươi lăm) đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

- TAND TC;

(1)

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

- TAND Cấp cao tại Tp.HCM;

(1)

- VKSND Tp.HCM;

(3)

- VKSND quận Thủ Đức;

(1)

- THA-DS quận Thủ Đức;

(1)

- TAND quận Thủ Đức;

(1)

- Công an quận Thủ Đức;

(1)

- Phòng PC 53 - CA Tp. HCM;

(2)

- Trại giam;

(1)

- Bị cáo;

(1)

Nguyễn Trung Ngôn

- Sở Tư pháp;

(1)

- Bị hại;

(1)

- UBND nơi bị cáo cư trú;

(1)

- Lưu, hình sự, hồ sơ. (22)

(4)

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 05/2020/HSPT của TAND TP. Hồ Chí Minh

  • Số bản án: 05/2020/HSPT
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 03/01/2020
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: 06 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù
Tải về bản án