TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN QUỲNH LƯU - NGHỆ AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 05/2020/HNGĐ - ST Ngày: 27- 4 - 2020.
V/v: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU – NGHỆ AN
- Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phan Thị Đóa
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Trần Văn Cương
Bà Hồ Thị Thúy Hằng
Thư ký phiên Tòa: Bà Vũ Hoàng Phương - Thư ký Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An.
Đại diện VKS nhân dân huyện Quỳnh Lưu tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Ngân - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 4 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 191/2019/TLST - HNGĐ ngày 19/12/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1990; Có mặt. Địa chỉ: Xóm 2, xã SH, huyện QL, tỉnh Nghệ An.
Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1988. Vắng mặt. Địa chỉ: Xóm 2, xã Sơn H, huyện QL, tỉnh Nghệ An.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Nhung trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nh và anh Trần Văn H kết hôn ngày 30 tháng 3 năm 2010 trên cơ sở tình yêu tự nguyện, và có đăng ký kết hôn tại UBND xã SH, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Sau khi cưới được vài năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, quan điểm trái chiều nên hay xảy ra tranh chấp cãi vã, anh H thường xuyên rượu chè, chơi bời. Chị đã cố gắng hòa hợp để sống với nhau vì con, nhưng anh H vẫn không thay đổi tính nết, nên mâu thuẫn vợ chồng tiếp tục căng thẳng. Đến năm 2013 chị và anh H đều đi làm ăn, sống xa nhau nên tình cảm vợ chồng không còn, cả hai vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2013 đến nay không còn hỏi han quan tâm nhau nữa. Nay chị Nh thấy không còn tình cảm gì với anh H nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Thị Trâm A, sinh ngày 12/4/2011. Ly hôn chị Nh có nguyện vọng được nuôi con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh Trần Văn H biết việc chị Nh yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nhưng anh H không hợp tác, không có bản tự khai gửi Tòa án.
Tuy nhiên, qua điều tra xác minh, bà Đàm Thị Th, mẹ đẻ anh H cho biết, Anh H và chị Nh kết hôn năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã SH, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Khi cháu Trần Thị Trâm A được 2 tuổi thì vợ chồng chị Nh anh H phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị Nh và anh H đi làm ăn ở Trung Quốc thì anh H bị công an bắt giữ, còn chị Nh đi theo người khác. Nên vợ chồng đã sống ly thân từ khoảng năm 2013 đến nay. Nay chị Nh yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì bà Th cũng đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vì chị Nh và anh H sống ly thân đã lâu, không còn tình cảm gì. Về con chung, chị Nh, anh H có 01 con chung là cháu Trần Thị Trâm A, hiện nay cháu đang ở với chị Nh, thỉnh thoảng có sang ở với bà nội. Nếu chị Nh có nguyện vọng nuôi con thì giao con chung cho chị Nh nuôi, nhưng chị Nh phải đảm bảo được các quyền lợi cho cháu. Về tài sản thì chị Nh và anh H mới kết hôn nên không có tài sản gì.
Tại bản tự khai ngày 18 tháng 12 năm 2019, cháu Trần Thị Trâm A có nguyện vọng xin được ở với mẹ.
Đại diện VKS phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký đã thực hiện đúng các trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn, chấp hành theo giấy báo của Tòa án. Bị đơn không chấp hành theo giấy báo của Tòa án.
Về đường lối giải quyết vụ án:
Áp dụng vào các Điều 51, khoản 1 điều 56, các điều 58, 81,82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 147 BLTTDS 2015; Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị xử:
Về tình cảm: Cho chị Nguyễn Thị Nh được ly hôn với anh Trần Văn H.
Về con chung: Giao cháu Trần Thị Trâm A, sinh ngày 12/4/2011 cho chị Nh trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh H vì chị Nh không yêu cầu. Anh H có quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm nom con chung không ai được ngăn cấm cản trở.
Về tài sản và nợ: Chị Nh, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn
xét.
Về án phí: Áp dụng Điều 147 BLTTDS 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội khóa 14 , nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Nh yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung với anh Trần Văn H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Trần Văn H đăng ký hộ khẩu tại xóm 2, xã SH, huyện QL, tỉnh Nghệ An; căn cứ điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H, nhưng anh đều vắng mặt, không hợp tác. Căn cứ vào quy định tại điều 227, điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.
Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nh và anh H là hợp pháp vì tuân thủ các thủ tục, điều kiện kết hôn do luật định. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị Nh là do không hợp nhau, hay bất đồng quan điểm và tranh chấp cãi vả, anh H thường xuyên rượu chè làm cho tình cảm vợ chồng căng thẳng, không thể hòa giải được. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2013 đến nay, không hỏi han quan tâm nhau, thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng.
Tòa án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của chị Nh và anh H tại Uỷ ban nhân dân xã SH, nhưng chính quyền địa phương cũng không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, mẹ đẻ anh H cho biết nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do chị Nh có người khác. Qua phiên hòa giải và phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ anh H đều vắng mặt, chị Nh kiên quyết xin ly hôn, cho thấy tình cảm hai bên đã không còn, anh H không có thiện chí đoàn tụ vợ chồng. Vì vậy nên xử cho chị Nguyễn Thị Nh được ly hôn anh Trần Văn H là phù hợp với quy định pháp luật.
Về con chung: Chị Nh và anh H có 01 người con chung là Trần Thị Trâm A, sinh ngày 12/4/2011 . Ly hôn, chị Nh có nguyện vọng xin được nuôi con. Xét thấy hiện nay cháu Trâm A đang ở với chị Nh, cháu khỏe mạnh phát triển bình thường. Nguyện vọng của cháu Trâm A cũng xin được ở với mẹ , nên cần tiếp tục giao con cho chị Nh chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng hai bên và quy định pháp luật. Tạm hoạn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh H vì chị Nh không yêu cầu.
[3]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Nh và anh Trần Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.
[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Nh phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm 300.000đ theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 51, khoản 1 điều 56, các điều 58, 81,82, 83 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014; khoản 1 điều 28; khoản 1 điều 40; điều 147; khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Nh được ly hôn với anh Trần Văn H .
Về con chung: Giao con chung là Trần Thị Trâm A, sinh ngày 12/4/2011 cho chị Nguyễn Thị Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh H vì chị Nh không yêu cầu.
Anh Trần Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự; người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.
Về tài sản và nợ chung: Chị Nh, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Nh phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ
(ba trăm nghìn đồng) chị Nh đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0004415 ngày 17 tháng 12 năm 2019.
Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.
TM/ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
TAND tỉnh Nghệ An; (Đã ký)
VKSND tỉnh Nghệ An;
VKS ND huyện Q.Lưu;
THADS Quỳnh Lưu;
Các đương sự;
UBND xã SH;
Lưu VP, HS. Phan Thị Đóa
Bản án số 05/2020/HNGĐ-ST của TAND huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 05/2020/HNGĐ-ST
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 27/04/2020
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Chị Nguyễn Thị Nh ly hôn anh Trần Văn H