TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚ QUỐC TỈNH KIÊN GIANG | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc |
Bản án số: 03/2021/HNGĐ-ST Ngày 05-02-2021 V/v tranh chấp xin ly hôn và nuôi con chung |
|
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚ QUỐC - TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên toà: Ông Chung Quốc Hội
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Dƣơng Tấn Đấu
Ông Trịnh Phƣớc Đức
Thư ký phiên tòa: Ông Lâm Thanh Toàn - Thư ký Toà án nhân dân thành phố Phú Quốc.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc: Ông Nguyễn Văn– Kiểm sát viên.
Trong ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 101/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2020, về tranh chấp “Xin ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/QĐST – HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Hồ Thị B, sinh năm 1986 (Có đơn xin vắng mặt). Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã C, thành phố D, Kiên Giang.
Bị đơn: Ông Hồ Văn Bé T, sinh năm 1985 (Vắng mặt lần hai). Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã C, thành phố D, Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Hồ Thị B trình
bày:
Bà Hồ Thị B và ông Hồ Văn Bé T kết hôn năm 2012 trên cơ sở tự tìm hiểu
yêu thương nhau rồi tiến đến hôn nhân. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện F ngày 08/5/2013.
Vợ chồng có 01 con chung tên Hồ Khánh N, sinh ngày 25/01/2013, hiện do bà B nuôi dưỡng.
Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, ông T không chăm lo gia đình mà lo ăn nhậu, không lo làm ăn kinh tế và không quan tâm chăm sóc vợ con, thấy tình cảm vợ chồng không còn nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay.
Nay bà Hồ Thị B yêu cầu Tòa án giải quyết:
Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Hồ Văn Bé T.
Về con chung: Bà B yêu cầu nuôi dưỡng người con chung tên Hồ Khánh N, sinh ngày 25/01/2013 đến tuổi trưởng thành đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Bà B xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Cam kết vợ chồng không nợ ai và không ai nợ vợ chồng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Thẩm phán đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng và thu thập đầy đủ chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Ngày 28/02/2020 bà B đóng tiền tạm ứng án phí nhưng đến ngày 27/4/2020 mới thụ lý vụ án đã vi phạm khoản 3 Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngày 27/4/2020, Tòa án thụ lý vụ án nhưng đến ngày 29/12/2020 mới có quyết định đưa vụ án ra xét xử đã vi phạm điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên vi phạm này không ảnh hưởng đến nội dung vụ án, đề nghị Thẩm phán rút kinh nghiệm.
Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa dân sự sơ thẩm. Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt nên căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt nguyên đơn. Bị đơn đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bị đơn.
Về quan điểm giải quyết vụ án:
Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà B được ly hôn với ông Tuy.
Về con chung: Giao cho bà B nuôi dưỡng người con tên Hồ Khánh N, sinh ngày 25/01/2013 đến tuổi trưởng thành đủ 18 tuổi. Bà B không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà B xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Hồ Văn B Tuy như thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ, do ông T thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú, không ai nhận văn bản thay cho ông T nên Tòa án đã niêm yết các thủ tục trên theo quy định pháp luật và đến tại phiên tòa hôm nay, ông T vắng mặt không có lý do. Theo biên bản xác minh của Tòa án ngày 20/10/2020 được Ban nhân dân ấp Gành Dầu, xã Gành Dầu xác nhận ông Hồ Văn Bé T có sinh sống tại tổ 4, ấp Gành Dầu, xã Gành Dầu, thành phố Phú Quốc, Kiên Giang.
Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt ông Hồ Văn Bé T.
Ông Hồ Văn Bé T không có yêu cầu phản tố trong vụ án và không có văn bản trình bày ý kiến gì.
Về quan điểm của Viện kiểm sát: Việc Thẩm phán đã vi phạm thời hạn thụ lý vụ án và thời hạn xét xử, Thẩm phán sẽ rút kinh nghiệm trong quá trình giải quyết vụ án sau này.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Bé và ông T tự nguyện kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn xã E, huyện F ngày 08/5/2012 đây là hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu xin ly hôn của bà B: Theo lời trình bày của bà B thì nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, ông T không chăm lo gia đình mà lo ăn nhậu, không lo làm ăn kinh tế và không quan tâm chăm sóc vợ con, thấy tình cảm vợ chồng không còn nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay. Theo biên xác minh ngày 20/10/2020 của Tòa án về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng thì được ban nhân dân ấp B, xã C xác nhận vợ chồng bà B với ông T do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau nên bà B làm đơn yêu cầu ly hôn. Tòa án nhiều lần triệu tập ông T lấy lời khai, hòa giải nhưng ông T cố tình vắng mặt và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà T nên Tòa án không thể xem xét yêu cầu, nguyện vọng của ông T.
Hội đồng xét xử thấy rằng hôn nhân của bà B và ông T là trầm trọng, không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, trong phần nghị án Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Thị B được ly hôn với ông Hồ Văn Bé T.
Về con chung: Bà B xác nhận hiện nay bà đang nuôi dưỡng người con chung và bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung đến tuổi trưởng thành đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Tại biên bản lấy lời khai cháu N thể hiện nguyện vọng muốn được sống với bà B nên cần xem xét ý kiến, nguyện vọng của cháu.
Trong phần nghị án, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu này của bà B, giao cho bà B nuôi dưỡng người con tên Hồ Khánh N, sinh ngày 25/01/2013 đến tuổi trưởng thành đủ 18 tuổi. Bà B không yêu cầu ông Tuy cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về tài sản chung: Bà B xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nợ chung: Bà B xác nhận vợ chồng không có nợ ai và không ai nợ vợ chồng, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí sơ thẩm: Bà Hồ Thị B phải chịu án phí sơ thẩm xin ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 28; 35; 147; 266, 271; 273, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015;
Căn cứ các 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Thị B được ly hôn với ông Hồ Văn Bé T.
Về con chung: Giao cho bà B tiếp tục nuôi dưỡng người con tên Hồ Khánh N, sinh ngày 25/01/2013 đến tuổi trưởng thành đủ 18 tuổi. Bà B không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bà B và các thành viên trong gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi cần thiết có thể thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con hoặc người trực tiếp nuôi con.
Về tài sản chung: Bà B xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nợ chung: Bà B xác nhận vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí sơ thẩm: Bà B phải chịu án phí sơ thẩm xin ly hôn là 300.000 đồng. Bà B đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002535 ngày 28/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc, khấu trừ vào tiền án phí, bà B đã nộp xong, không phải nộp thêm.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Chung Quốc Hội |
Bản án số 03/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 của TAND huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 03/2021/HNGĐ-ST
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 05/02/2021
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Xin ly hôn, nuôi con chung