Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 03/2021/DS-ST ngày 23/07/2021 của TAND huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Số bản án: 03/2021/DS-ST
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 23/07/2021
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Ông và bà Ngô Thị G là vợ chồng và có nhữngNguyễn Văn D2 người con là: Nguyễn Văn D, sinh năm 1959, địa chỉ: N1 - H - K - Hải Dương; Nguyễn Thị V, sinh năm 1961, địa chỉ: V1 - T1 - K - Hải Dương; Nguyễn Thị L, sinh năm 1965, địa chỉ: N2 - D1 - K - Hải Dương; Nguyễn Văn T2, sinh năm 1969, địa chỉ: Cậy Sơn 2 - H - K - Hải Dương; Nguyễn Văn H1 (T), sinh năm 1964, địa chỉ: Cậy Sơn 2 - H - K - Hải Dương; Nguyễn Văn T4, sinh năm 1971, đã chết năm 1981, không có vợ con; Nguyễn Văn T5, sinh năm 1975, đã chết năm 2010, không có vợ con. Ông D2 không có con nuôi, bố mẹ nuôi. Bố mẹ đẻ của ông D2 là cụ Nguyễn Văn D3 và cụ Trần Thị D4 (đều đã chết trước ông D2). Ông D2, bà G là vợ chồng có tài sản chung tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là: Quyền quản lý, sử dụng hợp pháp diện tích đất 326m2 (Trong đó có 300m2 đất ở, 26 m2 đất vườn thừa hợp pháp), thuộc thửa số 239, tờ bản đồ số 03, địa chỉ: xã H, thị xã K, tỉnh Hải Dương. Đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U693993, số vào sổ cấp giấy chứng nhận: H00421 do Ủy ban nhân dân huyện K cấp ngày 12/5/2005 cho người sử dụng đất là ông Nguyễn Văn D2 và bà Trần Thị G. Tổng giá trị đất theo kết quả xem xét thẩm định và định giá tài sản= 163.000.000 đồng. Trên diện tích đất trên ông D2, bà G đã xây dựng được các tài sản (theo kết quả xem xét thẩm định và định giá tài sản), gồm: 01 Nhà ở xây gạch babanh, mái pro xi măng, xây dựng năm 2009, tường không chát, cao 4,2m, diện tích 37 m2 trị giá 22.021.031 đồng; Bán mái trước nhà ở xây gạch babanh, mái pro xi măng, xây dựng năm 2009, tường không chát, diện tích 14,1 m2 trị giá 4.245.037 đồng; 01 Công trình phụ, xây gạch babanh, mái pro xi măng, xây dựng năm 2009, tường không chát, cao 2,5 m, diện tích 21,3 m2 trị giá 6.412.716 đồng; Sân nền bê tông xi măng xây dựng năm 2019, khối lượng 6,235m3 trị giá 7.202.195 đồng. Tổng trị giá các tài sản trên đất = 39.880.979 đồng. Theo anh T2, quan điểm của bà G đề nghị được tiếp tục quản lý sử dụng ½ giá trị quyền sử dụng đất và ½ giá trị các tài sản ông D2, bà G xây dựng trên đất, đây là tài sản thuộc quyền sử dụng riêng của bà G. Do ông D2 trước khi chết (ngày 27 tháng 11 năm 2009) không để lại di chúc nên đề nghị phân chia di sản do ông D2 để lại là ½ giá trị quyền sử dụng đất và ½ giá trị tài sản ông D2, bà G xây dựng trên đất cho các diện thừa kế theo quy định của pháp luật vì các bên không tự thỏa thuận giải quyết được; Các anh T2, D và các chị V, L hiện cùng có ý kiến thống nhất đề nghị Tòa án xem xét, phân chia phần di sản của ông D2 để lại theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận di sản của mình được hưởng đều tặng cho toàn bộ phần di sản được hưởng cho bà G và tự nguyện không yêu cầu bà G thanh toán giá trị di sản bằng tiền cho mình.
Tải về bản án