Bản án số 02/2022/DS-ST ngày 12/09/2022 của TAND tỉnh Lai Châu
Số bản án: 02/2022/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 12/09/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lai Châu
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Năm 1978 Giàng A D (Giàng A D B) kết hôn cùng bà Thào Thị N (D4), không có đăng ký kết hôn, tổ chức đám cưới theo phong tục, chung sống và chăm sóc bố mẹ ông D (ông D là con duy nhất), năm 1992 mẹ ông D chết, năm 1996 bố ông D chết, không để lại di chúc, tài sản là đất đai do bố mẹ để lại ông D và bà N sử dụng không có tranh chấp; quá trình chung sống ông D, bà N có 04 người con chung: Giàng Thị G (tên gọi khác là K, sinh năm 1979); Giàng Thị L (sinh năm 1984); Giàng Thị C (sinh năm 1996) và Giàng Thị T (sinh năm 2002). Năm 2002 lấy vợ thứ hai Vàng Thị S (sinh năm 1965) (ông D, bà N, bà S cùng chung sống trong một nhà tại bản Than Chi Hồ, xã Hồng Thu). Do có mâu thuẫn giữa bà N và bà S nên năm 2006 ông D không chung sống cùng bà N nữa mà ra ở chỗ khác cùng bà S; lúc đó tài sản chung của ông D và bà N gồm: 01 nhà gỗ mái lợp tôn, diện tích 7x12m = 84m2 tại bản Than Chi Hồ, xã Hồng Thu, trên diện tích đất mượn của Giàng A S2 (em con chú, năm 2018 đã rỡ nhà và trả lại đất cho S2); 01 con trâu 02 tuổi; 01 con ngựa 05 tuổi và đám ruộng có diện tích 3.895,7m2 tại bản Than Chi Hồ, xã Hồng Thu, ông D để lại cho bà Thào Thị N và hai con sử dụng; ông D cùng Vàng Thị S làm nhà ở chỗ khác cũng trong bản Than Chi Hồ, xã Hồng Thu. Năm 2013 bà N được cấp GCNQSD đất đối với đám ruộng có diện tích 3.895,7m2; năm 2015 ông D cùng Giàng A C, Giàng A S3 (anh em bên nhà ông D) tham gia họp nhưng ông D không được ký vào biên bản mà đại diện ông C ký ngày 24/7/2015, nội dung ai chăm sóc bà N thì được sử dụng đám ruộng (đám ruộng 3.895,7m2); năm 2019 bà N chết ông có tham gia họp trước khi làm ma cho bà N, ông D không được tổ chức làm ma cho bà N vì gia đình nhà D1 không cho; hiện ông D là người quản lý đám ruộng có diện tích 3.895,7m2; cuối năm 2019 Giàng Thị L và Liều A D1 đến tranh chấp; đầu năm 2020 UBND xã Hồng Thu hòa giải tranh chấp đất đai nhưng không thành; năm 2021 ông D khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và được hướng dẫn gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu. Ông D đề nghị: (1) Giải quyết tranh chấp đất đai với Giàng Thị L (con gái) với lý do khi Giàng Thị L đi lấy chồng đã được cho 02 đám đất; đám ruộng có diện tích 3.895,7m2 là của bà N, bà N chết phải do ông quản lý. (2) Đề nghị hủy GCNQSD đất số BN707931 do UBND huyện Sìn Hồ cấp cho bà N ngày 31/12/2013 vì khi bà N được cấp đất ông không biết.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 02/2022/DS-ST ngày 12/09/2022 của TAND tỉnh Lai Châu
Số bản án: 02/2022/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 12/09/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lai Châu
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Năm 1978 Giàng A D (Giàng A D B) kết hôn cùng bà Thào Thị N (D4), không có đăng ký kết hôn, tổ chức đám cưới theo phong tục, chung sống và chăm sóc bố mẹ ông D (ông D là con duy nhất), năm 1992 mẹ ông D chết, năm 1996 bố ông D chết, không để lại di chúc, tài sản là đất đai do bố mẹ để lại ông D và bà N sử dụng không có tranh chấp; quá trình chung sống ông D, bà N có 04 người con chung: Giàng Thị G (tên gọi khác là K, sinh năm 1979); Giàng Thị L (sinh năm 1984); Giàng Thị C (sinh năm 1996) và Giàng Thị T (sinh năm 2002). Năm 2002 lấy vợ thứ hai Vàng Thị S (sinh năm 1965) (ông D, bà N, bà S cùng chung sống trong một nhà tại bản Than Chi Hồ, xã Hồng Thu). Do có mâu thuẫn giữa bà N và bà S nên năm 2006 ông D không chung sống cùng bà N nữa mà ra ở chỗ khác cùng bà S; lúc đó tài sản chung của ông D và bà N gồm: 01 nhà gỗ mái lợp tôn, diện tích 7x12m = 84m2 tại bản Than Chi Hồ, xã Hồng Thu, trên diện tích đất mượn của Giàng A S2 (em con chú, năm 2018 đã rỡ nhà và trả lại đất cho S2); 01 con trâu 02 tuổi; 01 con ngựa 05 tuổi và đám ruộng có diện tích 3.895,7m2 tại bản Than Chi Hồ, xã Hồng Thu, ông D để lại cho bà Thào Thị N và hai con sử dụng; ông D cùng Vàng Thị S làm nhà ở chỗ khác cũng trong bản Than Chi Hồ, xã Hồng Thu. Năm 2013 bà N được cấp GCNQSD đất đối với đám ruộng có diện tích 3.895,7m2; năm 2015 ông D cùng Giàng A C, Giàng A S3 (anh em bên nhà ông D) tham gia họp nhưng ông D không được ký vào biên bản mà đại diện ông C ký ngày 24/7/2015, nội dung ai chăm sóc bà N thì được sử dụng đám ruộng (đám ruộng 3.895,7m2); năm 2019 bà N chết ông có tham gia họp trước khi làm ma cho bà N, ông D không được tổ chức làm ma cho bà N vì gia đình nhà D1 không cho; hiện ông D là người quản lý đám ruộng có diện tích 3.895,7m2; cuối năm 2019 Giàng Thị L và Liều A D1 đến tranh chấp; đầu năm 2020 UBND xã Hồng Thu hòa giải tranh chấp đất đai nhưng không thành; năm 2021 ông D khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và được hướng dẫn gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu. Ông D đề nghị: (1) Giải quyết tranh chấp đất đai với Giàng Thị L (con gái) với lý do khi Giàng Thị L đi lấy chồng đã được cho 02 đám đất; đám ruộng có diện tích 3.895,7m2 là của bà N, bà N chết phải do ông quản lý. (2) Đề nghị hủy GCNQSD đất số BN707931 do UBND huyện Sìn Hồ cấp cho bà N ngày 31/12/2013 vì khi bà N được cấp đất ông không biết.