TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số:02/2020/KDTM-ST Ngày 10-01-2020
V/v “Tranh chấp hợp đồng tín
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hồ Văn Thanh Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Bùi Văn Hồng
Bà Trương Thị Ngọc Linh Thư ký phiên tòa: Ông Đỗ Đình Thuyên – Thư ký Tòa án
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước tham gia phiên toà: Ông Dương Văn Sáu - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 04/2019/TLST- KDTM ngày 02 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tíntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 11 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST – DS ngày 20/12/2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
Ngân hàng H
Địa chỉ: Số 25 BIS, Đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu Đ, chức vụ: Tổng Giám đốc, theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần được Sở KH&ĐT thành phố Hồ Chí Minh cấp, đăng ký thay đổi lần thứ 26 ngày 11/12/2017.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đặng: Bà Huỳnh Nguyễn Bảo H, chức vụ: Trưởng phòng Xử lý nợ, theo giấy ủy quyền số 272/2019/QĐ - TGĐ ngày 21/2/2019 của Tổng Giám đốc Ngân hàng H
Người đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Nguyễn Bảo Hân – Ông Triệu Văn Duy – Chuyên viên quan hệ khách hàng doanh nghiệp Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển thành phố Hồ Chí Minh (Theo văn bản ủy quyền số 18/2019/ UB- HĐBANK - TPXLN ngày -09/4/2019 Ngân hàng thương mại Phát triển thành phố Hồ Chí Minh).
- Bị đơn:
Ông Trần Khắc Q, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Tổ 6, ấp Chà Là, xã Thanh Bình, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị Kim L, sinh năm 1970. Địa chỉ: Tổ 6, ấp Chà Là, xã Thanh Bình, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. (Anh Triệu Văn Duy có mặt tại phiên tòa, ông Trần Khắc Q, bà Phạm Thị Kim
L vắng mặt tại phiên tòa không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 09/4/2019, và quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền ngân hàng H trình bày:
Ngày 27/4/2017 ông Trần Khắc Q được Ngân hàng Hcho vay số tiền 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng) theo hợp đồng tín dụng số 6176/HĐTDHM – CN232/TC ngày 09/5/2015, phụ lục hợp đồng ngày 27/4/2017. Thời hạn vay là 01 năm kể từ ngày 27/4/2017 đến ngày 27/4/2018, mục đích vay để thanh toán tiền mua hàng từ Công ty Cổ phần Thương mại Bia Sài Gòn Miền Đông. Nợ gốc được trả cho ngân hàng theo từng kỳ trong thời hạn tại hợp đồng tín dụng đã ký kết. Lãi suất được tính theo công thức: Số lãi phải trả x LSCV(% năm) x Số ngày vay thực tế x 365 ngày.
Khi vay bà Trần Thị Kim Lý bảo lãnhcho ông Trần Khắc Q theo văn bản cam kết bảo lãnh ngày 27/4/2017 thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ trả nợ của bên được bảo lãnh đối với ngân hàng H.
Trong quá trình vay ông Trần Khắc Q đã trả cho ngân hàng H tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm số tiền nợ gốc là 121.975.518 đồng. Đến thời điểm từ ngày 21/2/2018 cho đến nay ông Q đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền cho Ngân hàng, vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận nên Ngân hàng yêu cầu ông Trần Khắc Q phải trả cho Ngân hàng số tiền gốc còn lại là 378.024.482 đồng, tiền lãi trong hạn là
1.339.339 đồng, tiền lãi quá hạn là 111.965. 985 đồng, tổng số tiền yêu cầu ông Q phải trả là 391.329.806 đồng.
Trường hợp ông Q không thanh toán hoặc thanh toán không hết thì đề nghị người bảo lãnh là bà Phạm Thị Kim L phải trả thực hiện nghĩa vụ thay cho ông Q đối với Ngân hàng H.
Đối với bị đơn là ông Trần Khắc Q và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thị Kim L đã được tòa án nhân dân huyện Hớn Quản tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến tòa làm việc theo yêu cầu của tòa án.
Kiểm sát viên phát biểu:
Việc tuân thủ pháp luật của thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Thẩm quyền thụ lý vụ án: Tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về hợp đồng tín dụng, bị đơn hiện tại không xác định được nơi ở, tuy nhiên khi lập hợp đồng tín dụng với Ngân hàng HD Bank thì bị đơn và người có quyền lợi liên quan cư trú tại xã Thanh Bình, huyện Hớn Quản. Căn cứ Điều 5, 6 nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao thì TAND huyện Hớn Quản thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
Về nội dung vụ án: Ngân hàng H đã cho ông Q vay số tiền 500.000.000đ, theo hợp đồng tín dụng hạn mức số 6176/17/HĐTDTDH – CN/232 ngày 27/4/2017, với thời hạn vay 12 tháng lãi suất 11%/năm và ngày đến hạn là 27/4/2018. Mục đích cho vay thanh toán tiền hàng mua hàng từ Công ty cổ phần thương mai bia Sài Gòn Miền Đông. Với bên cam kết bảo lãnh cho khoản vay là bà Phạm Thị Kim L khẳng định và cam kết bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên được vay là ông Trần Khắc Q theo văn bản cam kết bảo lãnh ngày 27/4/2017. Tuy nhiên, do ông Q vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi đến hạn như đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng và phụ lục hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết nên ông Q phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng.
Nay ngân hàng yêu cầu ông Q thanh toàn toàn bộ số tiền gốc và lãi tính đến ngày 10/01/2020 là 491.329.806 đồng. Nếu ông Q không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thì bà Lý, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho ông Q.
Xét thấy ông Q đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi đến hạn như trong hợp đồng tín dụng và phụ lục hợp đồng tín dụng mà ông Q đã ký kết với ngân hàng. Mặt khác việc ông Q ký kết hợp đồng là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật nên yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận
Căn cứ các Điều 385, 401, 410, 122, 463, 466, 468, 470 BLDS 2015 đề xuất
chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Q phải có trách nhiệm trả cho ngân hàng H tổng số tiền 491.329.806 triệu đồng trong đó 378.024.482 đồng, tiền lãi trong hạn là 1.339.339 đồng, tiền lãi quá hạn là 111.965. 985 đồng. Trường hợp ông
Q không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì bên bảo lãnh bà Phạm Thị Kim L phải có trách nhiệm trả thay ông Trần Khắc Q.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng: Ngân hàng H khởi kiện yêu cầu ông Trần Khắc Q về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Qúa trình giải quyết vụ án xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng ông Q có địa chỉ tại ấp Chà Là, xã Thanh Bình, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước, sau khi ký hợp đồng tín dụng ông Q đõ bỏ đi khỏi địa phương mà không thông báo với chính quyền địa phương và phía ngân hàng. Căn cứ vảo Điểm a, Khoản 2, Điều 6 Nghị quyết số 04/ 2017/ NQ – HĐTP ngày 05/05/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân huyện Hớn Quản vẫn thụ lý giải quyết theo thủ tục chung và xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn là ông Trần Khắc Q, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thị Kim L đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hớn Quản, người đại diện theo ủy quyền anh Triệu Văn Duy đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi thụ lý vụ án Tòa đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của tòa án nhưng tòa án chỉ cho ông Trần Khắc Q và bà Phạm Thị Kim L không đến tòa làm việc đồng thời vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về xác định quan hệ tranh chấp: Ngân hàng H là tổ chức tín dụng, đã cho ông Q vay tiền theo hợp đồng tín dụng nhưng ông Q đã vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi nên phát sinh tranh chấp. Từ đó có đủ căn cứ để xác định Ngân hàng H khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán tiền gốc và lãi suất theo quy định pháp luật là quan hệ “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” thuộc khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Hợp đồng tín dụng các bện ký kết nội dung thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên hợp pháp và có giá trị thi hành đối với các bên.
Về nội dung vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của ngân hàng H về việc yêu cầu ông Trầ Khắc Q phải trả số tiền nợ gốc là 378.024.482 đồng, tiền lãi trong hạn là 1,339.339 đồng, tiền lãi quá hạn là 111.965.985 đồng, tổng số tiền yêu cầu ông Q phải trả là 491.829.806 đồng.
Căn cứ vào hợp đồng tín dụng số số 6176/HĐTDHM – CN232/TC ngày 09/5/2015, phụ lục hợp đồng ngày 27/4/2017 giữa các bên ký kết đã thể hiện ý chí tự nguyện của hai bên. Số tiền vay là 500.000.000 đ (Năm trăm triệu đồng), thời hạn vay là 12 tháng tháng kể từ ngày 27/4/2017/đến ngày 27/4/2018, nợ gốc được trả thành nhiều lần , tại thời điểm kết thúc hạn mức thấu chi được cấp ông Q phải trả hết nợ gốc cho phái ngân hàng. Lãi suất khi vay là 10%/ năm được điều chỉnh cụ thể theo thông báo lãi suất của ngân hàng thông báo cho người vay. Mục đích vay tiền để thanh toán tiền hàng cho công ty SeBaCo. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Q không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh đã ký theo hợp đồng tín dụng. Kể từ ngày 21/2/2018 ông Q đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi theo thỏa thuận. Vì vậy, Ngân hàng yêu cầu ông phải trả nợ gốc và lãi trong hạn, lãi quá hạn đến ngày 10/01/2020 là có căn cứ để chấp nhận.
Đối với tiền lãi trong hạn: Xét trong Hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về lãi trong hạn, lãi quá hạn và tại Điều 5 của hợp đồng. Số tiền lãi phải trả = Dư nợ tính lãi x LSCV (% năm) x số ngày vay thực tế : 365 ngày. Ông Q vi phạm nghĩa vụ trả lãi tháng 01 năm 2018 là 1.339.339 đồng.
Đối với tiền lãi suất quá hạn: Theo hợp đồng tín dụng nợ quá hạn = 150% LSTC trog hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn nên ông Tuấn phải chịu tiền lãi suất quá hạn trên số tiền nợ gốc ông Q chưa trả cho Ngân hàng từ thời điểm 21/2/2018 đến ngày 10/01/2010 với số tiền là 111.965.985 đồng.
Đối với việc bảo lãnh của bà Phạm Thị Kim L.
Theo hồ sơ vụ án giữa ông Trần Khắc Q và bà Phạm Thị Kim L ký văn bản cam kết bảo lãnh ngày 27/4/2018. Căn cứ quy định tại Điều 335, Điều 336 Bộ luật dân sự 2015 việc các bên tự nguyện ký kết hợp đồng bảo lãnh là phù hợp quy định của pháp luật nên nguyên đơn yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bị đơn không trả được tiền và tài sản bảo đảm không đủ để trả nợ là có căn cứ chấp nhận. Do đó trong trường hợp ông Trần Khắc Q không thực hiện nghĩa hoặc thự hiện không đầy đủ vụ thì bà Phạm Thị Kim L có trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ cho ngân hàng theo văn bản bảo lãnh đã ký kết.
Ý kiến của Kiểm sát viên phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận một phần.
Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí Kinh doanh thương mại có giá ngạch theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, các Điều 35, 39, 93, 147, 227, 233, 244, 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ 335, 336 Bộ luật dân sự năm 2015;
Áp dụng các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
Áp dụng Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP phát triển TPHCM.
Buộc ông Trần Khắc Q trả cho Ngân hàng H số tiền 491.329.806 đồng (Bốn trăm chín mươi mốt triệu ba trăm hai mươi chín ngàn tám trăm linh sáu đồng) trong đó 378.024.482 đồng tiền gốc, tiền lãi trong hạn là 1.339.339 đồng, tiền lãi quá hạn là 111.965. 985 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Trần Khắc Q còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng cho đến khi trả nợ xong.
Trong trường hợp ông Trần Khắc Q không thực hiện việc trả nợ được, trả không đủ cho nguyên đơn thì người bảo lãnh là bà Phạm Thị Kim L phải có trách nhiệm trả toàn bộ số tiền còn thiếu cho nguyên đơn.
Về án phí. Ông Trần Khắc Q phải chịu 20.353.192 đồng án phí dân sự sơ
thẩm.
Ngân hàng H không phải chịu án phí sơ thẩm. Trả lại cho Ngân hàng H số tiền
11.455.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005343 ngày 19/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hớn Quản.
Về quyền kháng cáo:
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
TAND tỉnh Bình Phước;
VKSND huyện Hớn Quản;
Chi cục THADS huyện Hớn Quản;
Các đương sự;
Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Đã ký
Hồ Văn Thanh
Bản án số 02/2020/KDTM-ST ngày 10/01/2020 của TAND huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Số bản án: 02/2020/KDTM-ST
- Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 10/01/2020
- Loại vụ/việc: Kinh doanh thương mại
- Tòa án xét xử: TAND huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: BẢN ÁN