TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T THÀNH PHỐ H
Bản án số: 01/2023/HNGĐ-ST Ngày 04-01-2023 V/v Ly hôn, tranh chấp về nuôi con | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Nam Ninh.
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Nguyễn Thị Lương Ông Hoàng Đức Cảnh
Thư ký phiên tòa: Ông Đinh Hữu Hảo - Thư ký Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H tham gia phiên tòa: Bà Bùi Thị Thúy - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 363/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 274/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 239/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Dương Thị H, sinh năm 1993; Hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã A, huyện T, thành phố H; Nơi ở hiện nay: Thôn A, xã A, huyện Q, tỉnh T. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu M, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn H, xã A, huyện T, thành phố H. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/10/2022 và các lời khai tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Dương Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Nguyễn Hữu M từ năm 2012 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 05/10/2012 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, thành phố H. Sau khi kết hôn, chị chuyển khẩu về gia đình anh M sinh sống tại thôn H, xã A. Quá trình chung sống đến tháng 5 năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do hai bên bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung. Chị về nhà bố mẹ đẻ ở tại thôn A, xã A, huyện Q, tỉnh T từ cuối tháng 5 năm 2013, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay và không còn quan tâm nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn Hữu M.
Về con chung: Chị và anh Nguyễn Hữu M có một con chung tên là Nguyễn Hữu H sinh ngày 10/02/2013. Chị trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, con phát triển bình thường và được đảm bảo tốt về mọi mặt. Ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị và anh Nguyễn Hữu M không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Nguyễn Hữu M là bị đơn trong vụ án, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Dương Thị H và anh Nguyễn Hữu M.
Về con chung: Giao cho chị Dương Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Nguyễn Hữu H sinh ngày 10/02/2013 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là chị Dương Thị H vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai, bị đơn là anh Nguyễn Hữu M vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Dương Thị H và anh Nguyễn Hữu M đã xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 51 đăng ký ngày 05/10/2012 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, thành phố H). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống giữa chị H và anh M có phát sinh mâu thuẫn từ năm 2013, do mâu thuẫn vợ chồng nên chị H đã về nhà bố mẹ đẻ ở tại thôn A, xã A, huyện Q, tỉnh T từ giữa năm 2013, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay và không còn quan tâm nhau. Anh Nguyễn Hữu M vẫn cư trú tại thôn H, xã A, huyện T, thành phố H. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên tòa hai lần nhưng anh M đều vắng mặt không có lý do mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, chứng tỏ anh M không tha thiết níu kéo hôn nhân với chị H. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị H và anh M đã trầm trọng, mục đích
hôn nhân không đạt được vì vậy việc xin ly hôn của chị H với anh M là phù hợp với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và phù hợp với tình trạng thực tế của vợ chồng, phù hợp với quy định tại các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.
[3]. Về con chung: Chị H với anh M có một con chung tên là Nguyễn Hữu H sinh ngày 10/02/2013. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và xem xét nguyện vọng của con chưa thành niên. Xét thấy, lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh thể hiện chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, việc nuôi con đã ổn định và được đảm bảo tốt về mọi mặt; khi ly hôn, chị H đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, anh M không có ý kiến, mặt khác, con có nguyện vọng muốn được tiếp tục ở với mẹ. Vì vậy, giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện thực tế và phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh M không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5]. Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh M không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
[6]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản
3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:
Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Dương Thị H và anh Nguyễn Hữu M.
Về con chung: Giao cho chị Dương Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Nguyễn Hữu H sinh ngày 10/02/2013 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự
thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Dương Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Nguyễn Hữu M không trình bày ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Dương Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Nguyễn Hữu M không trình bày ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
Về án phí: Chị Dương Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008264 ngày 26 tháng 10 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H. Chị Dương Thị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn là chị Dương Thị H và bị đơn là anh Nguyễn Hữu M vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Nam Ninh |
Bản án số 01/2023/HNGĐ-ST ngày 01/04/2023 của TAND huyện Thủy Nguyên, TP. Hải Phòng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 01/2023/HNGĐ-ST
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 01/04/2023
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND huyện Thủy Nguyên, TP. Hải Phòng
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Chị Dương Thị H yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Hữu M