Hệ thống pháp luật

Xây dựng hàng rào lấn chiếm đường dân sinh có bị xử phạt hay không?

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL33149

Câu hỏi:

Đầu tháng 2 năm 2017 tôi có xây dựng hàng rào và trụ cổng lấn chiếm ra đường dân sinh của tổ dân phố, khi xây dựng Uỷ ban nhân dân phường đã xuống lập biên bản nhắc nhở nhưng chưa lập biên bản vi phạm hành chính. Đến nay hàng rào nhà tôi đã xây dựng xong, thánh 5 năm 2017 Uỷ ban nhân dân phường xuống lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt đối với gia đình tôi và yêu cầu tự phá dỡ hàng rào trên, điều đó có đúng không? 

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

– Luật đất đai 2013;

– Nghị định 102/2014/NĐ-CP;

Luật xử lý vi phạm hành chính 2012

– Nghị định 46/2016/NĐ-CP

2. Nội dung tư vấn

Bạn có nêu đầu tháng 2/2017, nhà bạn có xây dựng hàng rào và trụ cổng lấn chiếm ra đường dân sinh của tổ dân phố, khi xây dựng Uỷ ban nhân dân phường đã xuống lập biên bản nhắc nhở nhưng chưa lập biên bản vi phạm hành chính. Đến nay hàng rào nhà bạn đã xây dựng xong, tháng 5 năm 2017 Uỷ ban nhân dân phường xuống lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt đối với gia đình tôi và yêu cầu tự phá dỡ hàng rào trên, Việc xử phạt của Ủy ban nhân dân phường là đúng quy định của pháp luật. Bởi:

– Thứ nhất, về hành vi lấn chiếm đất: Theo quy định tại Điều 12 Luật đất đai 2013 thì hành vi bị nghiêm cấm là hành vi lấn, chiếm hủy hoại đất đai. Trong đó, lấn đất là việc người đang sử dụng đất tự chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất. Còn chiếm đất là việc sử dụng đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc việc sử dụng đất do được Nhà nước giao, cho thuê nhưng hết thời hạn giao, cho thuê đất không được Nhà nước gia hạn sử dụng mà không trả lại đất hoặc sử dụng đất khi chưa thực hiện thủ tục giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Trong trường hợp này, bạn có hành vi xây dựng hàng rào và trụ cổng lấn chiến đường dân sinh của tổ dân phố đã vi phạm quy định của pháp luật.

Và với hành vi lấn chiếm đất thì bạn sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 10 Nghị định 102/2014/NĐ-CP, cụ thể: Đối với hành vi lấn, chiếm đất thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình thì hình thức và mức xử phạt thực hiện theo quy định tại Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực về hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở, lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt; lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo; lĩnh vực về khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều; phòng, chống lụt, bão và trong các lĩnh vực chuyên ngành khác.

Trong trường hợp gia đình bạn lấn, chiếm, xây dựng công trình kiên cố trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân và 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với tổ chức theo Điểm a Khoản 8 Điều 12 Nghị định 46/2016/NĐ-CP

Bên cạnh đó, biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng là buộc trả lại đất lấn chiếm và khôi phục tình trạng của đất trước khi vi phạm, buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. 

Về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính: Theo khoản 1, Điều 6 Luật xử phạt vi phạm hành chính 2012 thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp vi phạm hành chính về đất đai thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm. Đối với hành vi vi phạm đã kết thúc thì thời điểm tính thời hiệu từ khi chấm dứt hành vi vi phạm, đối với hành vi vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu để được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm. Như vậy, trường hợp của bạn vẫn trong thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính

Tuy nhiên, về thẩm quyền xử phạt vi phạm, theo quy định của Khoản 1 Điều 71 Nghị định 46/2016/NĐ-CP thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ có thẩm quyền phạt tiền đến 4.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Vì vậy, trong trường hợp này, chủ tịch Ủy ban nhân dân phường không có thẩm quyền ra quyết định xử phạt, mà phải chuyển yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. 

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM