Hệ thống pháp luật

uỷ ban hành chính

"uỷ ban hành chính" được hiểu như sau:

Cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương các cấp và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.Uỷ ban hành chính gồm có chủ tịch, một hoặc nhiều phó chủ tịch, uỷ viên thư ký và các uỷ viên. Nhiệm kỳ của uỷ ban hành chính theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân đã bầu ra mình. Tổ chức của uỷ ban hành chính các cấp do pháp luật quy định.Thuật ngữ “Ủy ban hành chính” lần đầu tiên được quy định theo sắc lệnh số 63 ngày 22.11.1945 về tổ chức chính quyền nhân dân xã, huyện, tỉnh, kỳ và Sắc lệnh số 77 ngày 21.12.1945 quy định tổ chức chính quyền nhân dân thành phố, thị xã, khu phố. Cơ quan chính quyền địa phương gồm hội đồng nhân dân do dân bầu ra và uỷ ban hành chính do cử ra. Ở huyện, kỳ và khu phố chỉ có Uỷ ban hành chính. Hiến pháp Việt Nam năm 1946 đã hiến định hoá cách tổ chức cơ quan chính quyền địa phương được quy định ở trên trong Chương V - Hội đồng nhân dân và uỷ ban hành chính (từ Điều 57 đến Điều 62). Theo Hiến pháp năm 1946, uỷ ban hành chính có trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh của cấp trên; thi hành các Nghị quyết của hội đồng nhân dân địa phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y; chỉ huy công việc hành chính trong địa phương. Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với hội đồng nhân dân địa phương mình.Thuật ngữ “Uỷ ban hành chính" tiếp tục được sử dụng trong Hiến pháp năm 1959, dùng để chỉ cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân địa phương các cấp và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Theo Hiến pháp năm 1959, uỷ ban hành chính các cấp có nhiệm vụ quản lý công tác hành chính của địa phương, chấp hành nghị quyết, mệnh lệnh của hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan này, đồng thời, chịu sự lãnh đạo của uỷ ban hành chính cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của hội đồng chính phủ (nay là chính phủ), uỷ ban hành chính các cấp được ban hành quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những quyết định, chỉ thị ấy theo thẩm quyền; lãnh đạo công tác của các ngành thuộc quyền mình và các uỷ ban hành chính cấp dưới; có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các cơ quan và uỷ ban hành chính dưới quyền; có quyền đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị hội đồng nhân dân cùng cấp sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.Sau Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp 2013, thuật ngữ “Uỷ ban hành chính” được đổi thành “Uỷ ban nhân dân”, nhưng xét về mặt bản chất, cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ không có sự thay đổi nhiều, mà vẫn kế thừa qua các hiến pháp cho đến hiện nay. Cũng như uỷ ban hành chính, uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân cùng cấp và do cơ quan này bầu ra, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm tổ chức quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, bảo đảm bộ máy hành chính nhà nước thông suốt, hoạt động có hiệu quả.