Hệ thống pháp luật

Tư vấn nguyên tắc phân chia di sản thừa kế

Ngày gửi: 06/06/2018 lúc 11:31:12

Mã số: HTPL42230

Câu hỏi:

xinhỏi Mẹ tôi là vợ liệt sỹ, Bố tôi là liệt sỹ chống mỹ huy sinh năm 1968. Từ đó mẹ tôi không đi lấy chồng mà ở vậy chăm xóc Bố, Mẹ chồng và các em chồng. đến năm 1971 Mẹ tôi nhận tôi làm con nuôi cuộc sống gia đình rất đầm ấm, ông tôi chết vào những năm 1980, Bà tôi chết năm 2003. Hiện nay các cô và chú tôi chia tài sản đất đai của ông ,bà tôi thì không chia cho mẹ con tôi vì lý do 1, Mẹ tôi là con dâu không được hưởng quyền từa kế 2, Bố tôi chết trước khi ông, bà tôi lên cũng không được hưởng tài sản của ông, bà 3, Tôi là con nuôi riêng của Mẹ tôi lên cũng không được hưởng thừa kế Vậy tôi xin hỏi việc chia tài sản của gia đình tôi như vậy có đúng pháp luật không, xin trân trọng được tư vấn. Tôi xin cảm ơn

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

o_thetext=

1. Căn cứ pháp lý

Bộ luật dân sự năm 1995

Luật đất đai năm 2013

2. Nội dung tư vấn

Dựa trên thông tin bạn cung cấp, bạn là con nuôi của mẹ bạn – một người vợ của liệt sỹ. Sau khi bố bạn hy sinh năm 1968, mẹ bạn đã không tái giá mà ở lại chăm sóc bố, mẹ chồng và em chồng. Năm 1980, ông nội của bạn (tức bố chồng của mẹ nuôi bạn) mất, vài năm sau năm 2003, bà nội của bạn (mẹ chồng của mẹ nuôi bạn) chết. 

Có thể thấy, trong thông tin bạn không nói rõ khi bà (mẹ chồng của mẹ nuôi bạn) chết có để lại di chúc hay không, nên khi xem xét việc mẹ nuôi bạn và bạn có được hưởng quyền thừa kế đối với tài sản của bà hay không sẽ có hai trường hợp xảy ra.

Trường hợp 1: Bà của bạn (mẹ chồng của mẹ nuôi bạn) chết và có để lại di chúc.

Theo thông tin, bà của bạn chết vào năm 2003, căn cứ theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự năm 1995 thì cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đồng thời theo quy định tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 thì di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Do vậy, bà của bạn có quyền để lại di chúc để lại tài sản này cho những người thừa kế của mình.

Những người thừa kế sẽ có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại kể từ thời điểm mở thừa kế – thời điểm mà người để lại di sản là ông, bà của bạn chết theo quy định tại Điều 636, 639 Bộ luật dân sự năm 1995. Tuy nhiên, khi bà bạn chết đi thì căn cứ theo quy định tại Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995, di chúc được đưa ra để tiến hành phân chia thừa kế phải là di chúc hợp pháp và là di chúc cuối cùng mà bà bạn để lại trước khi chết.

Căn cứ theo quy định tại Điều 655 Bộ luật dân sự năm 1995 thì một di chúc được xác định là hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện:

“Điều 655. Di chúc hợp pháp

1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

4. Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

Dựa trên những căn cứ được xác định ở trên, khi di chúc do bà bạn để lại hoàn toàn hợp pháp và là di chúc cuối cùng được lập trước khi bà của bạn chết thì di chúc này được xác định là căn cứ để thực hiện việc phân chia di sản thừa kế, xác lập quyền thừa kế của người được hưởng di sản theo nội dung di chúc.

Trong trường hợp này, mẹ bạn, và bạn chỉ được hưởng quyền thừa kế di sản do bà để lại nếu mẹ bạn, và bạn là người được chỉ định hưởng di sản theo nội dung di chúc của bà để lại. Nếu trong nội dung di chúc không thể hiện việc bạn, hoặc mẹ bạn được hưởng di sản thừa kế thì bạn và mẹ bạn cũng không được quyền thừa kế những tài sản mà bà để lại. Đồng thời, bạn và mẹ bạn cũng không được xác định là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định tại Điều 672 Bộ luật dân sự năm 1995. Do vậy, việc bạn hoặc mẹ bạn có được hưởng di sản thừa kế khi bà chết, có để lại di chúc hay không phụ thuộc vào nội dung di chúc mà bà bạn để lại.

Trường hợp di chúc do bà bạn để lại trước khi mất được xác định là di chúc không hợp pháp, thì căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự năm 1995, di sản do bà bạn để lại sẽ được phân chia thừa kế theo pháp luật, giống như trường hợp bà chết mà không để lại di chúc.

Trường hợp 2: Bà của bạn chết mà không để lại di chúc.

Trong trường hợp ông, bà của bạn chết và không để lại di chúc thì căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự năm 1995 thì di sản thừa kế do bà để lại sẽ được thực hiện việc phân chia thừa kế theo pháp luật cho những người thừa kế theo pháp luật của bà. Cụ thể, những người thừa kế theo pháp luật của bà gồm:

“Điều 679. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.”

Căn cứ theo quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 thì khi bà của bạn chết không để lại di chúc thì di sản thừa kế do bà để lại sẽ được phân chia thành các phần bằng nhau cho những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà gồm: Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của bà; chồng của bà, con đẻ, con nuôi của bà.

Người thừa kế là cá nhân thì theo quy định tại Điều 638 Bộ luật dân sự năm 1995 phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.

Xem xét về tình huống của bạn, căn cứ theo quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995, có thể xác định bạn và mẹ nuôi của bạn – con dâu của ông, bà bạn không phải là một trong những người thừa kế theo pháp luật của bà bạn. Do vậy, trong trường hợp bà bạn chết, không để lại di chúc thì mẹ nuôi của bạn, và bạn cũng không được phân chia di sản thừa kế do bà để lại.

Tuy nhiên, bố của bạn (chồng của mẹ nuôi bạn) là con đẻ của bà bạn. Do vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 thì bố của bạn được xác định là một trong những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà bạn. Bố của bạn sẽ được thừa hưởng quyền thừa kế đối với phần di sản do bà của bạn để lại nếu còn sống tại thời điểm bà bạn chết. Mặc dù bố bạn hi sinh năm 1968, hi sinh trước thời điểm bà còn chết – thời điểm mở thừa kế, nhưng con của bố bạn vẫn được hưởng phần di sản thừa kế của bà để lại mà bố của bạn được hưởng nếu còn sống theo theo diện thừa kế thế vị được quy định tại Điều 680 Bộ luật dân sự năm 1995, cụ thể:

“Điều 680. Thừa kế thế vị

Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.

Xem xét trong tình huống của bạn, bạn không phải là con đẻ của bố bạn, chỉ là con nuôi của mẹ bạn sau khi bố bạn hi sinh. Do vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 680 Bộ luật dân sự năm 1995 thì bạn cũng không phải là người thừa kế thế vị nên bạn không được hưởng di sản thừa kế do bà bạn để lại, Trường hợp bố của bạn có con đẻ, thì người này sẽ được thừa kế thế vị, được hưởng phần di sản của bà mà bố của bạn được hưởng nếu còn sống.

Từ những phân tích nêu trên, trường hợp di sản thừa kế của bà được phân chia thừa kế theo pháp luật thì bạn, và mẹ nuôi của bạn cũng không được hưởng di sản thừa kế do bà để lại. Bố bạn chết trước thời điểm bà mất nên cũng không được xác định là người thừa kế của bà. 

Như vậy, từ những căn cứ được trích dẫn ở trên, việc bạn, mẹ bạn có quyền hưởng di sản thừa kế do bà để lại sau khi chết hay không phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể như bà có để lại di chúc hay không, nội dung di chúc thể hiện điều gì. Do thông tin bạn không nói rõ nên bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế để có sự xác định cụ thể. Về bố của bạn, do bố bạn chết trước thời điểm bà chết nên bố của bạn không được xác định là người thừa kế di sản do bà để lại. Tuy nhiên, nếu bố của bạn có con đẻ thì người con đẻ này vẫn được hưởng di sản thừa kế của bà do thừa kế thế vị.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn