Hệ thống pháp luật

Từ chối di sản thừa kế

Ngày gửi: 20/08/2020 lúc 09:48:12

Tên đầy đủ:
Số điện thoại: xxx
Email: *****@gmail.com

Mã số: DS292

Câu hỏi:


Bà tôi để lại di chúc một căn nhà cho các cô, bác và ba tôi. Trong đó, hai cô của tôi không có chồng và con, hiện sống cùng với tôi trong căn nhà của bà. Hai cô muốn để phần của mình cho tôi sau này định đọat, nhưng không muốn cho các chú bác tôi biết. Hiện di chúc của bà tôi đang giữ và cả gia đình thì chưa làm thủ tục công bố di sản, hai cô tôi có viết giấy tay và nhờ hai người lớn ở xóm làm chứng, nhưng khi viết giấy tờ thì bà tôi còn sống. Bây giờ bà tôi đã chết, xin hỏi các giấy tờ của 2 cô tôi có giá trị pháp lý không?


Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 667 và khoản 1 Điều 633 Bộ luật dân sự 2005 thì di chúc có hiệu lực pháp luật tại thời điểm bà của bạn mất. Khi đó, các cô của bạn mới có quyền thừa kế đối với phần tài sản trong di chúc của bà bạn. Khi bà bạn còn sống thì hai cô bạn chưa có quyền định đoạt đối với tài sản trên nên văn bản viết tay trên không có hiệu lực.
Ở trường hợp này, nếu 2 cô của bạn vẫn muốn tặng phần di sản được hưởng cho bạn thì 2 cô của bạn nên làm như sau:
Đầu tiên, hai cô của bạn làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế tại tổ chức hành nghề công chứng nơi có bất động sản.
Tiếp theo, hai cô của bạn có thể từ chối quyền thừa kế khi lập biên bản thỏa thuận phân chia di sản và tặng lại phần di sản được hưởng cho bạn.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM