Hệ thống pháp luật

truy tố

"truy tố" được hiểu như sau:

Đưa người phạm tội ra trước toà án để xét xử.Ở nhiều nước, truy tố thuộc thẩm quyền của Viện công tố. Tuy nhiên, tùy theo cách tổ chức của mỗi nước mà Viện Công tố được tổ chức ở Bộ Tư pháp hoặc ở Toà án (bằng Thẩm phán Công tố), ở Việt Nam, theo sắc lệnh số 13/SL ngày 24.01.1946, sắc lệnh số 51/SL ngày 17.04.1946 và sắc lệnh số 131/SL ngày 20.07.1946, hệ thống cơ quan công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân, do Bộ Tư pháp quản lý. Trên cơ sở Nghị quyết ngày 25.4.1958 của Quốc hội Khoá I (kỳ họp thứ 8) và các Nghị định số 156/TTg ngày 01.7.1959, Nghị định số 312/TTg ngày 02.7.1959 của Chính phủ Viện Công tố được thành lập, tách khỏi Toà án. Đến năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được thành lập. Theo quy định của pháp luật, truy tố người phạm tội ra trước toà thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân. Sau khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố rồi gửi cùng hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát cùng cấp thực hiện thẩm quyền truy tố.Theo Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây: 1) Truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng; 2) Trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung; 3) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trong trường hợp cần thiết, viện trưởng viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá mười ngày đối với đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tiếp đó, trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định nêu trên, viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can. Người bào chữa được đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa theo quy định của pháp luật và đề xuất yêu cầu.Sau khi nhận hồ sơ vụ án, viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 166 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến toà án. Trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, viện kiểm sát ra ngay quyết định chuyển vụ án cho viện kiểm sát có thẩm quyền.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, truy tố được quy định tại Phần thứ ba Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.