Hệ thống pháp luật

truy cứu trách nhiệm hình sự

"truy cứu trách nhiệm hình sự" được hiểu như sau:

Buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện.Truy cứu trách nhiệm hình sự được thực hiện trên cơ sở chủ thể (có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong luật hình sự. Thuộc về truy cứu trách nhiệm hình sự là những hoạt động khởi tố của cơ quan điều tra, truy tố của cơ quan viện kiểm sát, xét xử của cơ quan toà án và có thể cả cưỡng chế thi hành biện pháp của trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội của cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chỉ được truy cứu trong thời hạn luật định tính từ ngày tội phạm được thực hiện (và kết thúc). Đó là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hạn này dài hay ngắn tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Luật hình sự Việt Nam quy định thời hạn là 5 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sau thời hạn trên, người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu: 1) Người phạm tội không phạm tội mới mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ 1 năm tù trở lên; 2) Người phạm tội không cố tình trốn tránh việc truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như không bị truy nã.Nếu không thỏa mãn các điều kiện kể trên thì thời hiệu sẽ được tính lại từ ngày phạm tội mới hoặc từ ngày ra tự thú hoặc từ ngày bị bắt giữ.Phù hợp với pháp luật quốc tế, luật hình sự Việt Nam hiện hành quy định không có thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh. Ngoài ra, luật hình sự Việt Nam còn quy định không có thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia.