Hệ thống pháp luật

trưng dụng

"trưng dụng" được hiểu như sau:

Tạm lấy, tạm sử dụng tài sản, nhân công của cá nhân công dân hay của cơ quan dưới quyền trong một thời gian nhất định để phục vụ cho công việc cần kíp, trước mắt. Ví dụ: trưng dụng ô tô và các phương tiện khác cùng nhân công của các đơn vị bộ đội đóng quân gần đó vào việc chữa cháy; hoặc trưng dụng bộ đội thuộc các đơn vị trong địa bàn vào việc chống bão lụt...Trưng dụng được sử dụng với tư cách là một thuật ngữ pháp lý khi nó được coi là một biện pháp pháp luật.Trưng dụng, hiểu theo nghĩa này là biện pháp cưỡng chế hành chính nhằm buộc công dân, tổ chức, cơ quan phải giao tài sản, nhân lực cho cơ quan nhà nước, cán bộ thực hành công vụ tạm thời sử dụng trong các trường hợp khẩn cấp, phòng chống thiên tai, dịch bệnh... hoặc thực hiện chính sách của Nhà nước vì lợi ích quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.Biện pháp trưng dụng có thể được áp dụng trong những trường hợp: 1) Chiến sĩ cảnh sát đang đi bộ tuần tra trên đường phố, bắt gặp kẻ cướp giật tài sản bỏ chạy bằng xe máy. Chiến sĩ cảnh sát có quyền trưng dụng xe máy, ô tô của khách qua đoạn đường đó để sử dụng đuổi bắt tội phạm; 2) Trên đường xảy ra vụ tai nạn giao thông, cảnh sát giao thông hoặc những người có mặt tại hiện trường có thể dừng bất kỳ xe máy hay ô tô nào chạy qua yêu cầu họ chở ngay người bị nạn đến Bệnh viện cấp cứu; 3) Trường hợp xảy ra lũ lụt, thiên tai, địch họa, Cơ quan vã những người có trách nhiệm có quyền yêu cầu các công dân, tổ chức có điều kiện cung cấp phương tiện, xe cộ, nhân lực để phòng chống bão lụt...Như vậy, mặc dù có thể không quy định cụ thể về biện pháp và điều kiện áp dụng, nhưng trưng dụng lại là biện pháp thường được áp dụng trên thực tế trong những trường hợp khẩn cấp xảy ra, đặc biệt là ở các lĩnh vực quản lý hành chính, trật tự an toàn xã hội, vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.Thuật ngữ "trưng dụng" còn được sử dụng trong các văn bản, quy định của Nhà nước về chính sách đất đai thời kỳ trước hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc và chưa có Luật Đất đai. Tại Nghị định số 151-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14.4.1959 đã quy định về Thể lệ tạm thời trưng dụng ruộng đất để xây dựng những công trình do Nhà nước quản lý. Ở thời điểm này, Nhà nước công nhận quyền sở hữu của cá nhân về ruộng đất, do đó, khi cần thiết quy hoạch đất đai để xây dựng các công trình dân sinh, quốc phòng do Nhà nước quản lý, Nhà nước phải thực hiện biện pháp trưng dụng ruộng đất của nhân dân. Ruộng đất sau khi đã trưng dụng thuộc về sở hữu của Nhà nước. Những người có ruộng đất bị trưng dụng được bồi thường thỏa đáng. Trường hợp đã trưng dụng ruộng đất song vì lý do khách quan mà không sử dụng nữa thì cơ quan trưng dụng có thể trả lại đất cho chủ sở hữu.Trong trường hợp trưng dụng ruộng đất ở trên thì “trưng dụng" cũng được coi là biện pháp pháp luật và được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc, điều kiện, thủ tục do pháp luật quy định. Chỉ được trưng dụng ruộng đất trong những trường hợp thật cần thiết và đủ diện tích cho công trình xây dựng, không được trưng dụng thừa. Sau khi Luật đất đai ra đời, ghi nhận đất đai là công thổ thuộc sở hữu toàn dân, thuật ngữ "trưng dụng đất” không còn được sử dụng phổ biến nữa, mà thay bằng thuật ngữ "thu hồi đất”.