Hệ thống pháp luật

Tố cáo hành vi đánh đập gây thương tích 35%

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL40994

Câu hỏi:

Chào luật sư! Em muốn nhờ luật sư tư vấn cho em một sự việc như thế này ạ. 4 ngày trước chồng em đi làm xa nhà có cãi cọ với người cùng chỗ làm vì chuyện trong công việc. Người ta cậy gần nhà nên đã gọi bố và anh em nhà họ, khoảng chục người mang hung khí như dao, gậy sắt tới đánh chém chồng em. Chồng em bị đánh vào đầu và tay. Kết quả kiểm tra của bệnh viện thì chồng em bị thương 35%. Hôm xảy ra sự việc gia đình em gọi Công an nhưng chỉ có công an xã đến lập biên bản. Mấy ngày nay em chưa thấy công an ngó ngàng tới sự việc trên. Vì là công an xã, lại là xã của họ, mình là người ở xa nên em sợ họ không giải quyết. Luật sư có thể tư vấn giúp em các bước em nên làm để đòi lại công bằng cho chồng em với ạ. Và tội của những người kia sẽ bị xử lý như thế nào ạ! Em chân thành cảm ơn luật sư nhiều!

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật dân sự 2015

– Bộ luật hình sự năm 1999

– Nghị định 167/2013/NĐ-CP

2. Nội dung tư vấn

Thứ nhất, trách nhiệm hành chính:

– Căn cứ các quy định tại Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình như sau:

"Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;

b) Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;

c) Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;

e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;

 

4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ;

5. Hình thức xử phạt bổ sung:

Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm g Khoản 2; Điểm a, l, m Khoản 3 và Khoản 4 Điều này."

Như vậy, đối với hành vi đánh nhau, xúi giục, lôi kéo người khác đánh nhau có sử dụng vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt từ 500.000 đồng đến 5.000.000 đồng theo quy định tại Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình nêu trên.

Thứ hai, về trách nhiệm hình sự:

– Căn cứ Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác như sau:

"Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."

Trong trường hợp của bạn, theo thông tin bạn cung cấp, chồng bạn có tỷ lệ thương tật do bệnh viện xác nhận là 35% mang tính chất tham khảo (kết luận cuối cùng do cơ quan công an có thẩm quyền tiến hành giám định) và có tình tiết người đánh chồng bạn sử dụng hung khí nguy hiểm theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 nêu trên thì có thể cấu thành tội phạm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo trường hợp tại Khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 và mức xử phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Trong trường hợp phạm tội tại Khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 và có tố giác của người bị hại thì thẩm quyền khởi tố thuộc về cơ quan công an có thẩm quyền.

– Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được quy định tại Điều 103  Bộ luật tố tụng hình sự 2003 như sau:

"Điều 103. Nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

2. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.

3. Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác tội phạm biết.

Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.

4. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố."

>>> Luật sư tư vấn tố cáo hành vi cố ý gây thương tích qua tổng đài: 024.6294.9155

Thứ ba, trách nhiệm dân sự:

– Căn cứ Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau: 

"Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này."

Như vậy,, đối với hành vi xâm phạm sức khoẻ của người khác gây thiệt hại thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015.

– Căn cứ Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm như sau:

"Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định."

Trong trường hợp của bạn, chồng bạn bị thiệt hại về sức khoẻ mà theo xác nhận của bệnh viện mức thương tật là 35% và đã có biên bản xác nhận sự việc của công an xã thì bạn có quyền làm đơn khởi kiện đến Toà án yêu cầu bồi thường dân sự về thiệt hại về sức khoẻ. Mức bồi thường thiệt hại được quy định theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 nêu trên.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM