Hệ thống pháp luật

thuế tiêu thụ đặc biệt

"thuế tiêu thụ đặc biệt" được hiểu như sau:

Thuế thu đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa, kinh doanh dịch vụ thuộc diện Nhà nước cần thiết điều tiết tiêu dùng.Thuế tiêu thụ đặc biệt thuộc loại thuế gián thu và mức thuế thu thường rất cao nên có khả năng tác động tới việc sử dụng thu nhập vào tiêu dùng của dân cư,Trước cải cách thuế năm 1990, ở Việt Nam thuế tiêu thụ đặc biệt (gọi là thuế hàng hóa) và chỉ áp dụng đối với thành phần kinh tế tập thể, cá thể.Hàng hóa, dịch vụ cần điều tiết tiêu dùng phụ thuộc vào chính sách tiêu dùng, chính sách khuyến khích sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Hàng hóa, dịch vụ cần thiết điều tiết tiêu dùng được Nhà nước quy định trong danh mục hàng hóa dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và có thể thay đổi trong từng thời kỳ. Ví dụ: Theo quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990, các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gồm: Thuốc hút, rượu, bia, pháo, bài lá, vàng mã. Theo quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt được thông qua ngày 20.5.1998, hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gồm: thuốc lá điếu các loại, rượu, bia, ôtô các loại dưới 24 chỗ ngồi, xăng các loại, naphtha (napphiha), chế phẩm tái hợp và các chế phẩm khác để pha chế xăng, điều hòa nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống, bài lá, vàng mã, hàng mã, dịch vụ kinh doanh, vũ trường, mát xa, karaoke, kinh doanh casino, trò chơi bằng máy jackpot (Jackpot); kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe, kinh doanh gôn (golf). Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt ban hành năm 2003, danh mục chịu thuế tiêu .thụ đặc biệt bổ sung thêm hoạt động kinh doanh xổ số.Căn cứ tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá tính thuế và thuế suất. Nhà nước thu thuế tiêu thụ đặc biệt theo tỉ lệ phần trăm (%) tính trên trị giá chịu thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, thuế tiêu thụ đặc biệt được quy định tại Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 do Quốc hội khóa 12 ban hành 14 tháng 11 năm 2008.