Hệ thống pháp luật

sở hữu toàn dân về đất đai

"sở hữu toàn dân về đất đai" được hiểu như sau:

Sở hữu mà trong đó toàn dân là chủ sở hữu đối với đất đai.Toàn dân thực hiện quyền năng chủ sở hữu đất đai thông qua tổ chức đại diện do họ lập ra là Nhà nước. Điều 17 Hiến pháp năm 1992 quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.Sở hữu toàn dân về đất đai được đề cập cụ thể trong Luật đất đai năm 2003 như sau: 1) Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu; 2) Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau: quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất; quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; định giá đất; 3) Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau: thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại; 4) Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, thì đất đai thuộc sở hữu nhà nước và Nhà nước là chủ sở hữu.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Sở hữu toàn dân về đất đai được quy định tại Điều 197 Bộ luật Dân sự 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.