Hệ thống pháp luật

sa thải

"sa thải" được hiểu như sau:

Hình thức kỷ luật lao động dẫn đến quan hệ lao động của người lao động bị chấm dứt, người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.Người sử dụng lao động có quyền áp dụng hình thức kỷ luật này khi người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật lao động, có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp, người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm việc khác mà tái phạm hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm; tự ý bỏ việc năm ngày dồn trong một tháng hoặc 20 ngày dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng. Hậu quả của việc sa thải là người lao động bị mất việc làm và có thể bị tước một số quyền lợi (như trợ cấp thôi việc).Trước khi có Bộ luật lao động năm 1994, sa thải được gọi là buộc thôi việc áp dụng chung cho công nhân, viên chức nhà nước. Hiện nay, buộc thôi việc là một trong các hình thức kỷ luật công chức còn sa thải là hình thức kỷ luật tương tự áp dụng đối với các lao động hợp đồng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các trường hợp áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải được quy định tại Điều 126 Bộ luật lao động năm 2012 do Quốc hội khóa 12 ban hành ngày 18 tháng 06 năm 2012.