Hệ thống pháp luật

Quy định về chuộc lại tài sản theo quy định mới

Ngày gửi: 14/01/2020 lúc 23:02:24

Tên đầy đủ:
Số điện thoại: xxx
Email: *****@gmail.com

Mã số: HTPL18877

Câu hỏi:

Quy định về chuộc lại tài sản theo quy định mới. Chuộc lại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Bộ luật dân sự 2015 sắp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017 và Bộ luật dân sự 2005 sẽ hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật này có hiệu lực. Chính vì thế, sau khi Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực thì sẽ có rất nhiều vấn đề được áp dụng theo luật mới và để biết mình có áp dụng đúng luật hay không, đặc biệt là trong vấn đề hợp đồng mua bán với điều kiện chuộc lại tài sản.

Do nhu cầu của xã hội ngày càng tăng, việc mua bán diễn ra thường xuyên và hàng ngày trong cuộc sống của mỗi người. Tuy nhiên, do việc thiếu hiểu biết pháp luật trong mua bán các mặt hàng có giá trị lớn đã dẫn đến nhiều hậu quả không mong muốn cho cả người bán lẫn người mua.

Theo Điều 430 Bộ luật dân sự 2015 có nói đến khái niệm của hợp đồng mua bán tài sản như sau:

“Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.”

Ngoài ra, trong hợp đồng mua bán tài sản có thể có sự thỏa thuận giữa hai bên về điều kiện chuộc lại tài sản. Hợp đồng mua bán tài sản với điều kiện chuộc lại là một loại hợp đồng mua bán, mà theo đó bên bán thỏa thuận với bên mua về quyền chuộc lại tài sản đã bán sau một thời hạn gọi là thời hạn chuộc lại.

Để có thể so sánh điểm mới về hợp đồng mua bán tài sản với điều kiện chuộc lại của Bộ luật dân sự 2015 so với Bộ luật dân sự 2005 thì cả hai Bộ luật này đều chỉ có một điều khoản duy nhất quy định về chuộc lại tài sản đã bán. Đó là Điều 462 Bộ luật dân sự 2005 và Điều 454 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

Điều 462. Chuộc lại tài sản đã bán

1. Bên bán có thể thoả thuận với bên mua về quyền chuộc lại tài sản đã bán sau một thời hạn gọi là thời hạn chuộc lại.

Thời hạn chuộc lại tài sản do các bên thoả thuận nhưng không quá một năm đối với động sản và năm năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm giao tài sản. Trong thời hạn này bên bán có quyền chuộc lại bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên mua trong một thời gian hợp lý. Giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại, nếu không có thoả thuận khác.

2. Trong thời hạn chuộc lại, bên mua không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản, phải chịu rủi ro đối với tài sản.”

“Điều 454. Chuộc lại tài sản đã bán

1. Bên bán có thể thỏa thuận với bên mua về quyền chuộc lại tài sản đã bán sau một thời hạn gọi là thời hạn chuộc lại.

Thời hạn chuộc lại tài sản do các bên thỏa thuận; trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn chuộc lại không quá 01 năm đối với động sản và 05 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm giao tài sản, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Trong thời hạn này, bên bán có quyền chuộc lại bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên mua trong một thời gian hợp lý. Giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trong thời hạn chuộc lại, bên mua không được xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác và phải chịu rủi ro đối với tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Đối với khoản 1 Điều 462 Bộ luật dân sự 2005 có quy định thời hạn chuộc lại tài sản do các bên thỏa thuận nhưng không quá một năm đối với động sản và năm năm đối với bất động sản thì sang khoản 1 Điều 454 Bộ luật dân sự 2015 có quy định chuộc lại tài sản cũng do các bên thỏa thuận, tuy nhiên không có giới hạn giống như ở Bộ luật dân sự 2005 mà trong trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn chuộc lại mới là không quá 01 năm đối với động sản và 05 năm đối với bất động sản.

Như vậy, Bộ luật dân sự 2005 không có quy định về trường hợp thời hạn chuộc lại tài sản các bên không có thỏa thuận và thời hạn tối đa của động sản là 01 năm và bất động sản là 05 năm thì sang Bộ luật dân sự 2015 đã quy định cụ thể và hơn về trường hợp các bên không có thỏa thuận thời hạn và đối với trường hợp có thỏa thuận thì không còn thời hạn tối đa nữa mà các bên có thể thỏa thuận thời hạn mà mình mong muốn.

Theo như khoản 2 Điều 462 Bộ luật dân sự 2005 quy định trong thời hạn chuộc lại, bên mua tuyệt đối không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản, phải chịu rủi ro đối với tài sản thì cho dù các bên có thỏa thuận khác thì bên mua cũng không được thực hiện. Đây là một hạn chế của bên mua, vì dù là có điều kiện chuộc lại nhưng đây vẫn là một hợp đồng mua bán, mua nhưng không được tùy ý sử dụng theo ý của mình.

>>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài: 024.6294.9155

Để khắc phục hạn chế này, khoản 2 Điều 454 Bộ luật dân sự 2015 đã quy định rõ hơn và có lợi hơn đối với bên mua khi nói rõ bên mua không được xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác và phải chịu rủi ro đối với tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tức là, theo nguyên tắc, bên mua không được xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác, tuy nhiên, nếu bên mua và bên bán có thỏa thuận thì bên mua vẫn có thể bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê,… nếu được bên bán đồng ý và có thỏa thuận trong hợp đồng mua bán với điều kiện chuộc lại.

Như vậy, Bộ luật dân sự 2015 đã khắc phục được các điểm yếu trong vấn đề hợp đồng mua bán với điều kiện chuộc lại. Giúp cả bên mua và bên bán hiểu rõ hơn vấn đề này để áp dụng vào thực tiễn và có lợi cho cả hai bên.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM