Hệ thống pháp luật

phê chuẩn điều ước quốc tế

"phê chuẩn điều ước quốc tế" được hiểu như sau:

Chính thức xác nhận của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia sự ràng buộc của điều ước quốc tế đối với quốc gia.Thực tiễn quốc tế cho thấy những điều ước thuộc các lĩnh vực hòa bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ... là những điều ước quan trọng và thường được các bên ký kết thỏa  thuận áp dụng thủ tục phê chuẩn. Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế do pháp luật quốc gia quy định có thể là do nguyên thủ quốc gia (tổng thống, vua, chủ tịch nước...), quốc hội hoặc nghị viện...Thông thường, đối với điều ước quốc tế song phương, sau khi phê chuẩn các bên sẽ tiến hành trao đổi thư phê chuẩn. Đối với điều ước quốc tế đa phương, sau khi phê chuẩn phù hợp với quy định của chính điều ước đó, các thư phê chuẩn sẽ được chuyển tới cho quốc gia hoặc tổ chức quốc tế có trách nhiệm lưu chiểu điều ước quốc tế.Theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, những điều ướcquốc tế sau đây phải được phê chuẩn: 1) Điều ước quốc tế có quy định về việc phê chuẩn; 2) Điều ước quốc tế được ký nhân danh nhà nước; 3) Điều ước quốc tế được ký nhân danh chính phủ có quy định trái với quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc có quy định liên quan đến ngân sách nhà nước (Điều 31).Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (khoản 9 Điều 103), Chủ tịch nước phê chuẩn điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội phê chuẩn. Trong trường hợp Chủ tịch nước không tự mình mà trình Quốc hội quyết định, thì Quốc hội quyết định việc phê chuẩn (khoản 13 Điều 84). Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế được quy định cụ thể tại Điều 32 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, theo đó: 1) Quốc hội quyết định phê chuẩn điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kí với người đứng đầu nhà nước khác hoặc các điều ước quốc tế khác theo đề nghị của Chủ tịch nước; 2) Chủ tịch nước quyết định phê chuẩn các điều ước quốc tế cần phải được phê chuẩn, trừ các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội. Quyết định phê chuẩn điều ước quốc tế phải thể hiện những nội dung sau: 1) Ghi rõ tên điều ước quốc tế, thời gian, địa điểm ký;Nội dung bảo lưu, chấp nhận hoặc phản đối bảo lưu của bên ký kết nước ngoài, tuyên bố đối với điều ước quốc tế nhiều bên và những vấn đề khác;Quyết định việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế, quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội để thực hiện điều ước quốc tế; 4) Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc hoàn thành thủ tục phê chuẩn và thực hiện điều ước quốc tế.Đồng thời, theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, còn có hình thức phê duyệt điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Chính phủ.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, phê duyệt điều ước quốc tế được quy định tại Mục 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 do Quốc hội ban hành ngày 9 tháng 4 năm 2016.