Hệ thống pháp luật

phạt tiền

"phạt tiền" được hiểu như sau:

Buộc người bị kết án phải nộp sung quỹ nhà nước khoản tiền nhất định.Phạt tiền được quy định trong luật hình sự Việt Nam vừa là hình phạt chính và cũng là hình phạt bổ sung. Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên quy định hình phạt tiền là sắc lệnh số 223 năm 1946. Trong các Bộ luật hình sự, phạt tiền vẫn tiếp tục được quy định là hình phạt chính cũng như là hình phạt bổ sung.Trong hệ thống hình phạt chính, hình phạt tiền là hình phạt thuộc loại hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo không giam giữ, có thể được áp dụng cho trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định.Đối với trường hợp phạm tội có tính chất vụ lợi (như các tội phạm về tham nhũng, các tội xâm phạm sở hữu, các tội phạm về ma tuý...) hoặc dùng tiền làm phương tiện hoạt động (như tội kinh doanh trái phép), hình phạt tiền có thể được áp dụng là hình phạt bổ sung cho các hình phạt chính nhằm hỗ trợ cho các hình phạt chính đó.Trong quy định chung về hình phạt tiền, luật chỉ xác định mức tối thiểu của hình phạt tiền là một triệu đồng mà không xác định mức tối đa. Việc xác định mức tối đa cũng như mức tối thiểu (từ một triệu đồng trở lên) của hình phạt tiền được thực hiện khi quy định tội phạm cụ thể.Phạt tiền cũng là biện pháp xử phạt hành chính.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, phạt tiền được quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.