Hệ thống pháp luật

phá sản

"phá sản" được hiểu như sau:

Tình trạng một chủ thể (cá nhân, pháp nhân) mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Theo cách nói thông thường phá sản là tình trạng của một người bị vỡ nợ không còn bất cứ tài sản nào để trả các khoản nợ đến hạn.Dưới góc độ pháp lý, phá sản là hiện tượng con nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thường là Tòa án) tuyên bố phá sản và phân chia tài sản còn lại của con nợ cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật quy định.Thuật ngữ phá sản được hình thành từ thời La Mã cổ đại, bắt nguồn từ chữ "ruin" trong tiếng Latinh có nghĩa là sự khánh tận - tức là mất khả năng thanh toán.Ở Việt Nam, thuật ngữ này được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc do người Pháp mang sang Việt Nam cùng với quá trình thực dân hóa.Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thuật ngữ này dường như không được biết đến. Pháp luật phá sản và thuật ngữ phá sản chỉ thực sự được sử dụng trở lại kể từ khi có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế sang cơ chế thị trường theo đó hiện tượng phá sản dưới tác động của cạnh tranh trở thành hiện tượng bình thường và tất yếu.Năm 1990 cùng với sự ra đời của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty, thuật ngữ phá sản đã chính thức được sử dụng trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, do phá sản là vấn đề rất mới nên các đạo luật này  chỉ quy định rất đơn giản về điều kiện phá sản trong một điều luật duy nhất. Thủ tục phá sản và nhiều vấn đề khác liên quan đến việc giải quyết phá sản chưa được quy định cụ thể. Chính vì thế, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã được ban hành để lấp khoảng trống pháp luật kể trên. Sau hơn 10 năm thực thi, đạo luật phá sản đầu tiên kể trên của Việt Nam đã bộc lộ những điểm bất cập, không phù hợp với thực tế, đòi hỏi có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời. Đáp ứng yêu cầu này, Luật phá sản năm 2004 đã được ban hành để thay thế cho Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993.Thuật ngữ phá sản tuy được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ hàng ngày và trong khoa học pháp lý song cho đến nay vẫn chưa được chính thức giải thích trong các văn bản pháp luật về phá sản ở nước ta. Thay vào đó, thuật ngữ “tình trạng phá sản” được sử dụng và giải thích.Theo Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì doanh nghiệp lâm vào "tình trạng phá sản" là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.Theo Luật phá sản năm 2004 thì doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản.Pháp luật của các nước quy định về đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản rất khác nhau, ở một số nước, thủ tục tuyên bố phá sản có thể được áp dụng đối với tất cả những người mắc nợ mà không phân biệt cá nhân hay pháp nhân và cũng không phân biệt thương nhân hay không là thương nhân, không phân biệt là nợ dân sự hay là nợ thương mại (chẳng hạn Hoa Kỳ, Nhật,...). Một số nước lại chỉ xem thương nhân với các khoản nợ thương mại mới là đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản (chẳng hạn là pháp luật của Nga trước khi ban hành Luật mất khả năng thanh toán năm 2002). Một số nước lại quy định chỉ doanh nghiệp mới là đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản. Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 của Việt Nam đã quy định theo hướng này.Luật phá sản năm 2004 tiếp tục quy định đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật khi lâm vào tình trạng phá sản. Riêng đối với các doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công thiết yếu, việc áp dụng Luật phá sản sẽ do Chính phủ quy định cụ thể. Quy định này hàm ý rằng do vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của các doanh nghiệp này, việc áp dụng Luật phá sản cần được điều chỉnh bằng những quy tắc có tính ngoại lệ, phù hợp với đặc thù của các doanh nghiệp ấy.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, phá sản được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2014: “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản.”.

Ngoài ra "phá sản" cũng được hiểu là:

Là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản
(Theo khoản 2 Điều 4 Luật phá sản 2014)