Hệ thống pháp luật

phá sản doanh nghiệp

"phá sản doanh nghiệp" được hiểu như sau:

Tình trạng một doanh nghiệp do làm ăn thua lỗ dẫn đến việc hoàn toàn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và bị Tòa án, theo thủ tục luật định, ra quyết định bắt buộc doanh nghiệp thanh lý tài sản để trả nợ cho các chủ nợ.Trong pháp luật của nhiều nước, thuật ngữ phá sản được sử dụng với nghĩa hẹp để chỉ một số trường hợp cụ thể, khi con nợ thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hình sự gây thiệt hại cho các chủ nợ. Pháp luật của các nước này thường sử dụng thuật ngữ insolvency (không có khả năng trả nợ hay khánh tận) để thay thế cho thuật ngữ phá sản (bankruptcy). Ở Việt Nam, hiện tượng phá sản doanh nghiệp lần đầu tiên được quy định tại Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30.12.1993.Theo Luật phá sản năm 2014, khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, các chủ nợ hoặc chính bản thân doanh nghiệp mắc nợ được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp đến Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hoặc nơi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mắc nợ đặt trụ sở giao dịch chính. Nếu đủ điều kiện, Tòa án sẽ mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và tiến hành các hoạt động cần thiết khác. Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Tòa án ưu tiên áp dụng các biện pháp cần thiết để khôi phục doanh nghiệp. Nếu không được, Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp được thanh lý để trả cho các chủ nợ theo trật tự luật định.Phá sản doanh nghiệp là hiện tượng tất yếu của cơ chế kinh tế thị trường. Bên cạnh sự tác động tiêu cực như gây những xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm của người lao động, phá sản còn tác động tích cực trong việc cơ cấu lại nền kinh tế, loại bỏ bớt những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.