Hệ thống pháp luật

nội thủy

"nội thủy" được hiểu như sau:

Vùng nước biển nằm giữa bờ biển và đường cơ sở dùng để xác định chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác của quốc gia ven biển.Nội thủy bao gồm nhiều bộ phận, khu vực như vùng nước cảng biển, vũng đậu tàu, cửa sông, vịnh...Theo quy định của luật biển quốc tế và pháp luật của các quốc gia, nội thủy thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia ven biển, chủ quyền này được thực hiện cả ở phần nước nội thuỷ, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển cũng như vùng trời trên nội thủy. Hầu hết các quốc gia đều quy định tàu thuyền nước ngoài muốn vào nội thủy của quốc gia ven biển đều phải xin phép trước, trừ trường hợp tàu thuyền đó đang gặp tai nạn, rủi ro đe dọa sự an toàn của chính phương tiện và những người có mặt trên phương tiện đó. Khi ở trong nội thủy, tàu thuyền dân sự phải chịu sự tài phán của quốc gia ven biển. Tàu quân sự khi có mặt hợp pháp trong vùng nội thủy được hưởng quyền miễn trừ tuyệt đối về tư pháp và được coi là bất khả xâm phạm. Nếu vi phạm, quốc gia ven bờ có quyền ra lệnh cho tàu thuyền quân sự đó rời khỏi nội thủy. Quốc gia mà tàu quân sự có quốc tịch phải chịu trách nhiệm về những tổn thất do hành vi vi phạm của tàu đó gây ra tại nội thủy.Theo Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12.5.1977, nội thủy của Việt Nam là toàn bộ vùng biển nằm trong đường cơ sở và giáp với bờ biển Việt Nam. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị định số 30/CP ngày 29.01.1980 về Quy chế cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong đó quy định rõ các thủ tục mà tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ khi vào vùng nội thủy của Việt Nam.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, nội thủy được quy định tại Điều 9 Luật Biển Việt Nam năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 21 tháng 06 năm 2012: “Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.”.