nội luật hóa
"nội luật hóa" được hiểu như sau:
Chuyển hóa quy định trong điều ước quốc tế thành quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thực hiện đối với tổ chức, cá nhân ở một quốc gia.Trong quan hệ quốc tế, điều ước quốc tế là hình thức thể hiện sự thỏa thuận giữa các chủ thể luật quốc tế (chủ yếu là quốc gia). Theo nguyên tắc chung, các bên ký kết hoặc tham gia có nghĩa vụ thực hiện các quy định trong điều ước quốc tế. Tuy nhiên, các quy định này chỉ có giá trị bắt buộc thi hành đối với pháp nhân, thể nhân của bên ký kết hoặc tham gia điều ước quốc tế khi được nội luật hóa, nghĩa là khi các quy định trong điều ước quốc tế trở thành quy phạm pháp luật quốc gia.Việc nội luật hóa được tiến hành sau khi cơ quan có thẩm quyền của quốc gia chính thức xác nhận quy định trong điều ước quốc tế ràng buộc đối với quốc gia đó (phê chuẩn). Nếu trường hợp gia nhập những điều ước quốc tế không qua thủ tục phê chuẩn thì việc nội luật hóa được tiến hành sau khi thực hiện thủ tục gia nhập. Đối với điều ước quốc tế được ký kết với danh nghĩa Chính phủ hay một cơ quan công quyền, có quy định thủ tục phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thì việc nội luật hóa được tiến hành sau khi được phê duyệt. Thực chất, nội luật hóa điều ước quốc tế là quá trình chuyển hóa hiệu lực, cụ thể hóa quy định ghi trong điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết để áp dụng không chỉ đối với quốc gia, mà còn đối với cả pháp nhân, thể nhân thuộc quốc gia đó. Do đó, tùy thuộc vào từng điều ước quốc tế mà quốc gia thành viên có thể áp dụng nhiều hình thức để nội luật hóa điều ước quốc tế, cụ thể có các hình thức: 1) Hình thức ban hành văn kiện nhà nước quy định các quy định trong điều ước quốc tế có hiệu lực áp dụng ở quốc gia thành viên. Đây là hình thức đơn giản nhất để nội luật hóa điều ước quốc tế vì không phải ban hành nhiều quy phạm pháp luật mà chỉ thuần túy quy định pháp nhân, thể nhân có nghĩa vụ thực hiện quy định trong từng điều ước quốc tế cụ thể. Tuy nhiên, do các quy định trong điều ước quốc tế xác lập nhằm điều chỉnh hành vi của quốc gia thành viên nên thường không đủ mức cụ thể để điều chỉnh hành vi của pháp nhân, thể nhân khi có các hoạt động liên quan; 2) Hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc sửa đổi, bổ sung quy định trong các văn bản pháp luật để cụ thể hóa các quy định trong điều ước quốc tế. Hình thức nội luật hóa này tạo ra văn bản quy phạm pháp luật mới trong hệ thống pháp luật quốc gia hoặc làm thay đổi nội dung điều chỉnh của một số quy định trong văn bản pháp luật hiện hành; 3) Hình thức bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật hoặc một số quy định trong văn bản pháp luật quốc gia để phù hợp với yêu cầu của điều ước quốc tế. Đây là hình thức khắc phục sự mâu thuẫn trong nội dung điều chỉnh của pháp luật quốc gia theo yêu cầu của quy định trong điều ước quốc tế.Nội luật hóa là phương thức thực hiện điều ước quốc tế khác biệt với việc phê chuẩn hay phê duyệt điều ước quốc tế. Nội luật hóa không nhằm mục đích thừa nhận điều ước quốc tế mà nhằm tạo ra sự ràng buộc đối với pháp nhân, thể nhân với điều ước quốc tế mà quốc gia tham gia. Chính vì vậy, nội luật hóa có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các điều ước quốc tế.Cùng với tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương. Các điều ước này thường được nội luật hóa dưới nhiều hình thức, trong đó phần lớn được thực hiện bằng cách bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung quy định trong văn bản pháp luật để phù hợp với yêu cầu của điều ước quốc tế.