niên hiệu
"niên hiệu" được hiểu như sau:
Tên năm mà các vị vua dưới các triều đại phong kiến thường đặt cho mình khi lên ngôi.Mỗi triều đại có thể có nhiều vua và mỗi một vị vua khi lên ngôi thường đặt niên hiệu riêng cho mình bắt đầu từ năm mình lên ngôi hoặc cũng có thể là một số năm sau đó, một vị vua có thể có một niên hiệu hoặc nhiều niên hiệu kế tiếp nhau. Cách tính năm được gọi theo niên hiệu của vua. Ví dụ: dưới Triều Lý (Tiền Lý), Lý Bí lên ngôi vua năm 544 đặt tên nước là Vạn Xuân và lấy niên hiệu là Thiên Đức, như vậy gọi năm Thiên Đức thứ nhất là ứng với năm 544, năm Thiên Đức thứ hai là năm 545...; hoặc Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua năm 968 và đặt tên nước là Đại cồ Việt nhưng đến năm 970 vua Đinh mới đặt niên hiệu là Thái Bình, như vậy năm Thái Bình thứ nhất là năm 970. Lê Thánh Tông ở ngôi vua 37 năm đã đặt cho mình 2 niên hiệu là Trang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497).Việc đặt niên hiệu nhằm khẳng định quyền cai trị của các vị vua và phân biệt thời kỳ cai trị của vị vua này với thời kỳ cai trị của vị vua khác của các triều đại phong kiến. Trong sử sách và trong dân gian thường gọi tên của các vị vua này bằng niên hiệu như Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Trung nên được gọi là vua Quang Trung; Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long, được gọi là vua Gia Long.