Hệ thống pháp luật

nhân danh

"nhân danh" được hiểu như sau:

Việc thực hiện một hành động lấy danh nghĩa của một chức danh, một tổ chức hay một quốc gia.Khi một cá nhân hành động nhân danh một chức danh nào đó, thì hành động đó mang danh nghĩa của chức danh mà người đó đại diện. Khi một nguyên thủ quốc gia như Chủ tịch nước, Tổng thống đi thăm ngoại giao và làm việc với một nước khác, thì họ thăm và làm việc dưới danh nghĩa của vị Chủ tịch nước, Tổng thống, người thay mặt của một quốc gia, một nhà nước. Cá nhân đảm nhận một chức danh thay đổi theo nhiệm kỳ nhưng bản thân chức danh đó thì không thay đổi.Việc nhân danh thường được tuân thủ trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, như; khi bắt người bị nghi là phạm tội, cảnh sát viên tuyên bố: “nhân danh pháp luật, tôi bắt ông”. Các quan Tòa nhân danh công lý để ra các phán quyết về các vụ án, thể hiện sự uy nghiêm, công minh và quyền lực của công lý.Ở nước ta, khi ra bản án, quyết định về các vụ án hình sự, dân sự, hành chính... chủ tọa phiên Tòa tuyên bố: “Nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa quyết định...". Tại phần đầu của các bản án, quyết định của Tòa án đểu có ghi dòng chữ “Nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Bản án, quyết định của Tòa án ở một số nước như Liên bang Nga và Trung Quốc cũng đều bắt đầu bằng sự nhân danh quốc gia mình."Nhân danh” và “thay mặt” có điểm chung là đều để chỉ hành động được thực hiện không phải với tư cách cá nhân của người thực hiện hành động đó. Tuy nhiên, “nhân danh” có điểm khác cơ bản với “thay mặt". Thay mặt là nói hoặc làm thay cho một người, nhóm người hay tổ chức. Ví dụ: người cha thay mặt cho gia đình đứng ra phát biểu lời cảm ơn những người đã đến dự lễ kết hôn của con mình. Hay một người cấp phó ký văn bản hành chính thay mặt người cấp trưởng đi vắng. Trong khi đó, như đã giải thích ở trên, nhân danh là việc thực hiện một hành động mang tính chính thức dưới danh nghĩa của một chức danh, một tổ chức hay quốc gia.