Hệ thống pháp luật

người thực hiện công việc không có ủy quyền

"người thực hiện công việc không có ủy quyền" được hiểu như sau:

Người vốn không có nghĩa vụ thực hiện một công việc, nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện, khi người có công việc không biết hoặc biết mà không phản đối.Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện công việc phù hợp với khả năng và điều kiện của mình, thực hiện công việc như công việc của chính mình, phù hợp với ý định của người có công việc, nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc; phải thông báo cho người có công việc về quá trình, kết quả thực hiện công việc nếu có yêu cầu; được yêu cầu thanh toán các chi phí hợp lý đã bỏ ra, kể cả trong trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình; được trả thù lao do công việc được thực hiện chu đáo, có lợi cho người có công việc.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, thực hiện công việc không có ủy quyền được quy định tại Chương XVIII Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.