Hệ thống pháp luật

người nước ngoài

"người nước ngoài" được hiểu như sau:

Người không có quốc tịch của nước sở tại.Theo Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 thì người nước ngoài là người có quốc tịch nước ngoài hoặc người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam.Người nước ngoài xét theo quy chế pháp lý được hưởng, có thể chia thành ba nhóm: những người được hưởng quy chế ngoại giao và các quy chế tương tự quy chế ngoại giao; những người nước ngoài được hưởng quy chế theo các hiệp định riêng lẻ, nhưng không thuộc quy chế ngoại giao hoặc quy chế tương tự; những người nước ngoài đang định cư, làm ăn sinh sống ở nước sở tại. Địa vị pháp lý của người nước ngoài được xác lập trên cơ sở pháp luật nước sở tại (Lex domicili) và pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch (Lex patriae). Địa vị pháp lý của người nước ngoài còn được quy định trong các điều ước quốc tế đa phương (Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước về quyền chính trị dân sự năm 1966, Công ước về quyền kinh tế - văn hóa - xã hội năm 1966...) và các điều ước quốc tế song phương (các Hiệp định tương trợ tư pháp, Hiệp định về khuyến khích bảo hộ đầu tư,...). Quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được quy định trong hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp năm 1992, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật lao động năm 1994, Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, Luật đầu tư năm 2005, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật khoa học và công nghệ năm 2000, Luật hải quan năm 2001; Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, Pháp lệnh về quyền ưu đãi miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993,...

Ngoài ra "người nước ngoài" cũng được hiểu là:

Là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam.
(Theo khoản 1 Điều 3 Luật nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam)