Hệ thống pháp luật

người làm chứng

"người làm chứng" được hiểu như sau:

Trong quan hệ pháp luật nói chung, người làm chứng là người có đủ điều kiện do pháp luật quy định, có mặt và trực tiếp làm chứng cho việc xảy ra của một sự kiện pháp lý nhất định.Trong quan hệ tố tụng, người làm chứng là người biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để khai báo về những sự việc (tình tiết) cần được xác minh trong vụ án.Trong tố tụng hình sự, người làm chứng có thể là người trực tiếp hoặc qua người khác biết được những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội. Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: người nào biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. Vai trò của người làm chứng rất quan trọng vì lời khai của họ khi được thẩm vấn có thể là chứng cứ trong vụ án.Để lời khai của người làm chứng được khách quan, luật quy định những người sau đây không được làm chứng: người bào chữa của bị can, bị cáo; người do nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.Người làm chứng có nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Nếu cố ý không đến mà không có lý do chính đáng thì có thể bị dẫn giải; khai báo trung thực và đầy đủ về những tình tiết liên quan đến vụ án mà mình biết. Nếu từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 Bộ luật hình sự, khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 Bộ luật hình sự.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, người làm chứng được quy định tại Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.