Hệ thống pháp luật

người giúp sức

"người giúp sức" được hiểu như sau:

Người đồng phạm đã cố ý tạo ra những điều kiện vật chất hay tinh thần cho việc thực hiện tội phạm.Người giúp sức là một trong bốn loại người đồng phạm. Họ có thể có hành vi giúp sức về vật chất hoặc có thể có hành vi giúp sức về tinh thần hoặc có cả hai loại hành vi đó.Giúp sức về vật chất có thể là cung cấp công cụ, phương tiện hoặc khắc phục những trở ngại... để tạo điều kiện cho người thực hành thực hiện tội phạm được dễ dàng, thuận lợi hơn.Giúp sức về tinh thần có thể là những chỉ dẫn, góp ý kiến, cung cấp tình hình...Thông thường, hành vi giúp sức được thực hiện qua hành động nhưng cũng có thể có trường hợp giúp sức qua không hành động. Đó có thể là trường hợp của những người có nghĩa vụ pháp lý phải hành động nhưng đã cố ý không hành động và qua đó đã loại trừ trở ngại khách quan ngăn cản việc thực hiện tội phạm của người trực tiếp thực hiện tội phạm, tạo điều kiện cho họ có thể thực hiện hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm được đến cùng.Một dạng giúp sức đặc biệt là giúp sức bằng lời hứa hẹn trước sẽ che giấu người phạm tội, che giấu các tang, vật chứng hoặc sẽ tiêu thụ các vật do phạm tội mà có sau khi tội phạm thực hiện xong. Lời hứa hẹn trước này có tác dụng củng cố ý định phạm tội, củng cố quyết tâm phạm tội của người trực tiếp thực hiện tội phạm... Chính do có sự tác động tinh thần như vậy mà luật hình sự Việt Nam coi hành vi hứa hẹn trước là một dạng giúp sức tinh thần.Hành vi giúp sức thường được thực hiện trước khi người thực hành thực hiện tội phạm. Nhưng cũng có trường hợp người giúp sức có hành vi tham gia khi tội phạm đang được tiến hành.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, người giúp sức  được quy định tại Khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự   năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.