người chủ mưu
"người chủ mưu" được hiểu như sau:
Người chủ động về mặt tinh thần gây ra tội phạm, gợi ra những âm mưu, phương hướng hoạt động của nhóm phạm tội.Người chủ mưu là khái niệm được hình thành và được dùng trước hết để chỉ một loại người tổ chức trong các vụ phạm tội phản cách mạng (nay là các tội xâm phạm an ninh quốc gia). Người chủ mưu có thể tham gia trực tiếp hoặc có thể đứng ngoài tổ chức phạm tội phản cách mạng. Trong Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967, người chủ mưu được xác định là một trong những đối tượng cần nghiêm trị. Nội dung nguyên tắc này đã được thể hiện trong các điều luật quy định các tội phạm cụ thể. Trong các điều luật này đều có khung hình phạt tăng nặng cho đối tượng là chủ mưu.Trong Bộ luật hình sự Việt Nam đầu tiên - Bộ luật hình sự năm 1985 và trong Bộ luật hình sự năm 1999, khái niệm chủ mưu đều được dùng để chỉ một dạng người tổ chức trong đồng phạm cùng với hai dạng người tổ chức khác là người cầm đầu và người chỉ huy. Theo đó, người chủ mưu là người đề xướng việc thiết lập nhóm phạm tội, vạch ra các ý đồ, phương hướng hoạt động phạm tội của nhóm phạm tội. Cùng với những người tổ chức khác, người chủ mưu góp phần thành lập nhóm phạm tội và điều khiển hoạt động phạm tội của nhóm phạm tội đó. Người chủ mưu cũng được xác định trong các điều luật về nguyên tắc xử lý của hai bộ luật này là đối tượng bị nghiêm trị.