Hệ thống pháp luật

người cấp dưỡng

"người cấp dưỡng" được hiểu như sau:

Người mà pháp luật quy định có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của những người không sống chung với mình nhưng có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng trong trường hợp những người đó là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân, những người mà pháp luật xác định là gặp khó khăn, túng thiếu.Quy định về cấp dưỡng và người cấp dưỡng đã được đề cập từ lâu trong pháp luật dân sự Việt Nam. Theo Điều 144, Điều 145 Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Điều 142, Điều 143 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật năm 1936 thì khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án có thể quyết định về số tiền cấp dưỡng mà người chồng phải trả cho người vợ bất kể duyên cớ ly hôn là do vợ hoặc chồng. Việc cấp dưỡng sẽ chấm dứt khi người vợ tái giá...Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện đại cũng có quy định về cấp dưỡng ở Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Theo các quy định này, người cấp dưỡng là người vợ hay là người chồng tùy theo khả năng của mình có nghĩa vụ cấp dưỡng cho phía bên kia trong trường hợp họ gặp khó khăn, túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng khi ly hôn. Nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt khi người được cấp dưỡng đi lấy chồng hoặc lấy vợ mới.Về bản chất, cấp dưỡng thể hiện sự tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai bên vợ, chồng khi đã ly hôn mà một bên gặp khó khăn túng thiếu. Dựa trên quan điểm này, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã mở rộng phạm vi chủ thể là người cấp dưỡng, nhằm khuyến khích các thế hệ trong gia đình có trách nhiệm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp hoàn cảnh khó khăn hoặc không thể tự nuôi sống bản thân mình, cấp dưỡng được xây dựng thành một chế định hoàn chỉnh, quy định tại Chương VI (từ Điều 50 đến Điều 62). Theo các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, người cấp dưỡng không chỉ là người vợ hoặc người chồng khi vợ chồng ly hôn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo khả năng của mình trong trường hợp bên kia khó khăn yêu cầu cấp dưỡng, mà nghĩa vụ cấp dưỡng có thể phát sinh giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa vợ và chồng: giữa người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người được nuôi dưỡng, nhưng người có nghĩa vụ nuôi dưỡng đã trốn tránh nghĩa vụ và pháp luật buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng...Về nguyên tắc, nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và người cấp dưỡng không thể chuyển giao nghĩa vụ cấp dưỡng thuộc trách nhiệm của mình cho người khác thực hiện thay. Người cấp dưỡng có thể là những người thuộc các trường hợp sau đây: 1) Cha, mẹ là người cấp dưỡng đối với con khi ly hôn: nếu cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì cha hoặc mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; 2) Con là người cấp dưỡng đối với cha mẹ: con đã thành niên không sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; 3) Anh, chị, em là người cấp dưỡng cho nhau: Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; 4) ông bà nội, ông bà ngoại là người cấp dưỡng cho cháu; cháu là người cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại, ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu, có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên mà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng là cha, mẹ, anh, chị, em ruột. Cháu đã thành niên không chung sống cùng ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng theo quy định của pháp luật; 5) Vợ, chồng là người cấp dưỡng cho nhau khi ly hôn: khi ly hôn, nếu một bên gặp khó khăn, túng thiếu thật sự, thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình; 6) Người cấp dưỡng có thể là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng, nhưng người này trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng và pháp luật buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cụ thể về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong các trường hợp một người cấp dưỡng cho nhiều người và nhiều người cùng cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người. Mức cấp dưỡng thông thường do các bên tự thỏa  thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nếu không thỏa  thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.Nghĩa vụ của người cấp dưỡng sẽ được chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 1) Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động; có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình; 2) Người được cấp dưỡng đã được người khác nhận làm con nuôi hoặc trở về sống chung do người cấp dưỡng trực tiếp nuôi dưỡng; 3) Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết; 4) Người được cấp dưỡng là vợ hoặc chồng khi ly hôn nay đã kết hôn với người khác; 5) Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, cấp dưỡng được quy định tại Chương VII Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2014.