người bị hại
"người bị hại" được hiểu như sau:
Người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra.Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản.Nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Trong trường hợp người bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại và có những quyền của người bị hại.Trước đây quyền và nghĩa vụ của người bị hại chưa được quy định cụ thể. Sắc lệnh số 85/SL ngày 25.5.1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng là văn bản pháp luật đầu tiên quy định quyền kháng cáo của người "bị thiệt hại”. Các quyền và nghĩa vụ khác của người bị hại được quy định trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự (kèm theo thông tư số 16/TATC ngày 27.9.1974 của Tòa án nhân dân tối cao). Quy định này được hoàn thiện và pháp điển hóa tại Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và được bổ sung, sửa đổi năm 2000, được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 kế thừa, phát triển, theo đó, người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; có quyền đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; tham gia phiên Tòa; khiếu nại quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên Tòa.