Hệ thống pháp luật

nghĩa vụ

"nghĩa vụ" được hiểu như sau:

Việc phải làm theo bổn phận của mình.Mối quan hệ phát sinh giữa một hay nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc, thực hiện một hành vi hoặc không được làm một công việc, một hành vi, vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (gọi là người có quyền). Khái niệm này thể hiện sự ràng buộc giữa các bên có liên quan trong những mối quan hệ cụ thể, trước hết là một phạm trù đạo đức học phản ánh trách nhiệm của chủ thể - một cá nhân, một tập đoàn, một giai cấp, một dân tộc, đối với những việc phải làm trong những điều kiện xã hội cụ thể, trước một tình hình xã hội nhất định tại một thời điểm nhất định. Trong đời sống nhà nước - pháp luật, nghĩa vụ là khái niệm được sử dụng rất phổ biến nhất là trong lĩnh vực giao lưu dân sự, trong đó chủ yếu là hợp đồng dân sự (như hợp đồng mua, bán, vay mượn...), hành vi dân sự đơn phương (như lập di chúc, hứa thưởng và thi có giải...), chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật, thực hiện công việc không có Ủy quyền...), về đối tượng của nghĩa vụ, đó có thể là tài sản, công việc phải làm hoặc không được làm như trong lĩnh vực nghĩa vụ dân sự, các đối tượng này phải được chỉ định đích xác để thuận lợi trong việc thực hiện và tránh xảy ra tranh chấp (ví dụ: hợp đồng mua bán tài sản, mua bán là vật đặc định...). Ngoài ra, đối tượng của nghĩa vụ còn là những giá trị không phải là tài sản như nghĩa vụ công dân (nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tôn trọng, chấp hành pháp luật).Thông thường, nghĩa vụ luôn đi đôi với quyền như quyền công dân đi liền với nghĩa vụ công dân; làm nghĩa vụ thì phải được hưởng quyền. Một chủ thể làm nghĩa vụ là để thỏa  mãn nhu cầu, đòi hỏi, lợi ích của một chủ thể khác có quyền như người vay nợ có nghĩa vụ trả nợ cho người cho vay, người có quyền đòi khi nợ đến ngày phải trả được thỏa  thuận từ trước.