nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự
"nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự" được hiểu như sau:
Nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định sự thật của vụ án hình sự.Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua việc xác định sự thật của vụ án. Hoạt động chứng minh tội phạm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định hết sức chặt chẽ. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội.Do sự khác nhau về chức năng, nhiệm vụ nên việc chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng ở mỗi giai đoạn tố tụng có những đặc điểm riêng. Ở giai đoạn khởi tố, Cơ quan điều tra có nghĩa vụ thu thập chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Ở giai đoạn truy tố, trên cơ sở hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát có nghĩa vụ chứng minh người bị đề nghị truy tố có phạm tội hay không phạm tội: nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự để làm bản cáo trạng truy tố bị can trước Tòa án. Ở giai đoạn xét xử, nghĩa vụ chứng minh thuộc về Hội đồng xét xử. Quán triệt nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Bản án của Hội đồng xét xử được tuyên đọc trước phiên Tòa là kết quả của sự phán xét, đánh giá tổng hợp các tình tiết, chứng cứ được xem xét để xác định, chứng minh cho tình trạng phạm tội hay không phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... để đi đến phán quyết về tính chất, mức độ phạm tội và biện pháp chế tài tương ứng.Bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh các tình tiết của vụ án có lợi cho họ nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.