nghi thức kết hôn giữa công dân việt nam với người nước ngoài
"nghi thức kết hôn giữa công dân việt nam với người nước ngoài" được hiểu như sau:
Trình tự, thủ tục tiến hành đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật.Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài tiến hành tại Việt Nam hoặc tại cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam phải tuân theo nghi thức được quy định tại Điều 11, Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 11, khoản 2 Điều 17, khoản 4 Điều 19 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10.7.2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý. Nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được công nhận là vợ chồng (Điều 11 Nghị định số 68).Theo khoản 2 Điều 17 Nghị định số 68, lễ đăng ký kết hôn được tổ chức trang trọng tại trụ sở Sở Tư pháp. Khi tổ chức lễ kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện sở Tư pháp chủ trì hôn lễ, yêu cầu hai bên cho biết ý định lần cuối về sự tự nguyện kết hôn; nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện Sở Tư pháp ghi việc kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn, yêu cầu từng bên ký tên vào Giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết hôn và trao cho vợ, chồng mỗi người 01 bản chính Giấy chứng nhận kết hôn.Theo khoản 4 Điều 19 Nghị định số 68, lễ đăng ký kết hôn ở ngoài Việt Nam thì được tổ chức trang trọng tại trụ sở cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam. Khi tổ chức lễ kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam chủ trì hôn lễ, yêu cầu hai bên cho biết ý định lần cuối về sự tự nguyện kết hôn. Nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan Ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ghi việc kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn, yêu cầu từng bên ký tên vào Giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết hôn và trao cho vợ, chồng mỗi người 01 bản chính Giấy chứng nhận kết hôn.Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, phù hợp với pháp luật của nước đó thì được công nhận tại Việt Nam, nếu vào thời điểm kết hôn công dân Việt Nam không vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn. Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, nhưng vào thời điểm yêu cầu công nhận việc kết hôn, hậu quả của sự vi phạm đó đã được khắc phục hoặc công nhận việc kết hôn đó là có lợi cho việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em thì việc công nhận hôn nhân đó cũng được công nhận tại Việt Nam (Điều 20 Nghị định số 68).Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân của nước đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam tuân theo nghi thức kết hôn do Hiệp định đó quy định.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được quy định tại Chương VIII Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2014.