nghị án
"nghị án" được hiểu như sau:
Việc Hội đồng xét xử thảo luận và quyết định các vấn đề của vụ án.Theo quy định của pháp luật, chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Việc nghị án phải được tiến hành tại phòng riêng, được giữ bí mật và phải cách ly với bên ngoài. Trong thời gian Hội đồng xét xử nghị án, không ai được phép vào phòng nghị án hoặc bằng mọi cách liên lạc với thành viên của Hội đồng xét xử. Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án”, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án" (khoản 1); “Khi nghị án chỉ được căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên Tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên Tòa” (khoản 3); “Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được tất cả các thành viên Hội đồng xét xử kín tại phòng nghị án trước khi tuyên án” (khoản 4).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, nghị án được quy định tại Điều 264 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015