Hệ thống pháp luật

ngân sách nhà nước

"ngân sách nhà nước" được hiểu như sau:

Toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là Quốc hội) quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.Ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước trong hệ thống tài chính quốc gia để phát triển kinh tế, xã hội và duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước.Vào hậu kì của chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã thắng lợi trong cuộc đấu tranh nhằm thiết lập trật tự thu, chi của quốc gia tách bạch với các khoản thu, chi của gia đình vua, chúa phong kiến còn mang tính độc đoán của cá nhân vua, chúa quyết định, ngân sách cũng chưa có dự toán, chưa có niên độ, không có luật pháp điều chỉnh và việc thiết lập chế độ thuế khóa phải có sự chấp thuận của cơ quan dân cử. Từ đó, ở các nước sử dụng thuật ngữ "ngân sách nhà nước” để chỉ việc thu, chi của Nhà nước. Các khoản thu, chi của Nhà nước ghi trong bản dự trù (dự toán ngân sách) được thể hiện bằng số tiền cụ thể, sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thì có giá trị bắt buộc thực hiện. Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa, sự mở rộng nội dung quản lý nhà nước, nhà nước tư sản phát triển ngân sách nhà nước, theo đó mở rộng và tăng cường việc quản lý nhà nước và quản lý tài chính, thực hiện việc dự toán và quản lý phù hợp. Ở Việt Nam, Luật ngân sách nhà nước đầu tiên được ban hành năm 1996 đã xác định: ngân sách là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong năm... Ngân sách nhà nước được hình thành từ mọi khoản thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của Chính phủ, các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối ngân sách nhà nước. Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thay thế Luật ngân sách năm 1996, Quốc hội là cơ quan quyết định ngân sách của cả nước, Hội đồng nhân dân các cấp quyết định ngân sách của từng địa phương. Ngân sách nhà nước ở Việt Nam là hệ thống thống nhất, gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Luật ngân sách năm 2002 quy định rõ việc xác định các nguồn thu của ngân sách nhà nước, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước; các nguồn thu của ngân sách địa phương, nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương theo quy định ngân sách được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền với trách nhiệm, bảo đảm cho các cấp chính quyền địa phương chủ động trong việc thực hiện những nhiệm vụ được giao, tăng cường nguồn lực cho ngân sách xã. Ngân sách địa phương gồm ngân sách của các cấp chính quyền địa phương có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, ngân sách cấp dưới là một bộ phận của ngân sách cấp trên. Khoảng thời gian thực hiện thu, chi ngân sách theo bản dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định gọi là năm ngân sách. Năm ngân sách phổ biến ở các nước là mười hai tháng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, ngân sách nhà nước được quy định tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 6 năm 2015.

Ngoài ra "ngân sách nhà nước" cũng được hiểu là:

Là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
(Theo khoản 14 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước 2015)