ngân hàng trung ương
"ngân hàng trung ương" được hiểu như sau:
Ngân hàng thực hiện các hoạt động của Nhà nước về tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, giữ vai trò trung tâm của hệ thống ngân hàng, tổ chức tài chính chính thức của một quốc gia.Chức năng phổ biến của ngân hàng trung ương trên thế giới là thực hiện chức năng công quyền về ngân hàng như: phát hành đồng tiền quốc gia, bảo vệ giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền đó, điều hòa lưu thông tiền tệ ở một quốc gia hoặc trong một liên minh giữa một số quốc gia. Khác với các ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương hoạt động chủ yếu nhằm mục đích thực hiện chính sách tiền tệ của một quốc gia hoặc của liên minh một số quốc gia. Ngoài ra, ngân hàng trung ương có thể có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, ban hành các quy chế quản lý hoạt động ngân hàng, cũng như chịu trách nhiệm về hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt.Tùy thuộc vào nguồn gốc hình thành, bộ máy thực hiện quyền lực nhà nước và quan điểm lập pháp mà ngân hàng trung ương tồn tại theo các dạng sau: Thứ nhất, dạng công ty cổ phần (ở Hoa Kỳ, Hungary...). Tuy được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp, nhưng ngân hàng trung ương loại này khác các doanh nghiệp thông thường ở chỗ, việc hình thành bộ máy lãnh đạo phụ thuộc vào quyền lực nhà nước và hoạt động chủ yếu nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; Thứ hai, ngân hàng trung ương là định chế tài chính công, thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước quyết định bộ máy lãnh đạo. Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng. Trên thế giới có ba mô hình tổ chức và quản lý ngân hàng trung ương: ngân hàng trung ương trực thuộc Quốc hội như Ngân hàng dự trữ liên bang Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang Đức; Ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ như Ngân hàng nhân dân Trung Hoa, Ngân hàng Pháp; Ngân hàng trung ương trực thuộc Bộ Tài chính như ở Malaysia (hiện nay nhiều nước từ bỏ mô hình này).Ở Việt Nam, Ngân hàng nhà nước Việt Nam vừa là cơ quan của Chính phủ, vừa là Ngân hàng trung ương của đất nước (Xt. Ngân hàng nhà nước).