Hệ thống pháp luật

năng lực trách nhiệm hình sự

"năng lực trách nhiệm hình sự" được hiểu như sau:

Năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình và điều khiển được hành vi theo đòi hỏi của xã hội.Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng kiềm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định một người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể có lỗi và mới có thể là chủ thể của tội phạm khi đã đạt độ tuổi luật định (tuổi chịu trách nhiệm hình sự).Luật hình sự Việt Nam không quy định năng lực trách nhiệm hình sự một cách trực tiếp mà quy định gián tiếp qua quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Sở dĩ có thể quy định theo cách này vì giữa độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự có quan hệ với nhau, trong đó độ tuổi là điều kiện để có thể có năng lực trách nhiệm hình sự. Với việc quy định này, Luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa nhận những người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nói chung là có năng lực trách nhiệm hình sự. Trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan có trách nhiệm không đòi hỏi phải đánh giá từng trường hợp là có năng lực trách nhiệm hình sự hay không mà chỉ phải xác định độ tuổi và cá biệt nếu có sự nghi ngờ, mới cần phải kiểm tra có phải là trường hợp trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay không.