Hệ thống pháp luật

năng lực pháp luật tố tụng dân sự

"năng lực pháp luật tố tụng dân sự" được hiểu như sau:

Khả năng do pháp luật quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và chủ thể khác có quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự.Năng lực pháp luật tố tụng dân sự được coi là điều kiện đầu tiên để một chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự và có mối quan hệ mật thiết với năng lực pháp luật dân sự của chủ thể.Năng lực pháp luật tố tụng dân sự gắn liền với mỗi chủ thể, không bị hạn chế, tước đoạt. Khi quyền dân sự của chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể được tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án. Tuy vậy, năng lực pháp luật tố tụng dân sự không phải là thuộc tính tự nhiên của chủ thể mà do pháp luật quy định. Theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và mất đi khi người đó chết. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có từ khi thành lập, được cho phép thành lập hoặc đăng ký thành lập và mất đi khi chấm dứt hoạt động.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, năng lực pháp luật tố tụng dân sự được quy định tại Điều 466 và Điều 467 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.