Hệ thống pháp luật

năng lực hành vi pháp luật

"năng lực hành vi pháp luật" được hiểu như sau:

Khả năng của các cá nhân hay tổ chức do pháp luật quy định, bằng các hành vi của chính mình thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý và tự chịu trách nhiệm về những hành vi ấy.Năng lực hành vi của các tổ chức xuất hiện cùng lúc với năng lực pháp luật vào thời điểm có quyết định thành lập hoặc thừa nhận tổ chức đó của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Năng lực hành vi của các cá nhân xuất hiện muộn hơn so với năng lực pháp luật. Nếu năng lực pháp luật nói chung xuất hiện từ khi con người mới sinh ra, thì năng lực hành vi xuất hiện khi con người đạt tới độ tuổi nhất định.Năng lực hành vi chia làm hai loại: năng lực hành vi đầy đủ và năng lực hành vi hạn chế. Năng lực hành vi đầy đủ xuất hiện khi con người đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, khái niệm đầy đủ ở đây được hiểu theo nghĩa tương đối. Nghĩa là vào lứa tuổi 18 con người có thể tham gia vào hầu hết các loại quan hệ pháp luật, trừ một số quan hệ pháp luật đặc biệt. Ví dụ: 20 tuổi nam giới mới có quyền đăng ký kết hôn, 21 tuổi công dân mới có quyền ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước. Nhiều nước quy định 35 tuổi công dân mới có quyền ứng cử tổng thống.Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, người chưa thành niên từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự hạn chế: khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mà có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (đó là những trường hợp được quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005).Ngoài lý do chưa đạt độ tuổi mà pháp luật quy định, công dân từ 18 tuổi trở lên cũng có thể bị hạn chế năng lực hành vi pháp luật hoặc mất năng lực hành vi dân sự như trường hợp một người do bị bệnh tâm thần hoặc người mắc những bệnh khác mà không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Thể theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền. Khi không còn căn cứ tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó, hoặc người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.