năng lực hành vi dân sự
"năng lực hành vi dân sự" được hiểu như sau:
Khả năng của chủ thể do pháp luật quy định, bằng hành vi và theo ý chí của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.Năng lực hành vi dân sự của chủ thể bao gồm khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền dân sự và thực hiện nghĩa vụ dân sự cụ thể; khả năng tự chịu trách nhiệm bằng tài sản về hành vi của mình, bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.Năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ thuộc vào lứa tuổi, vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân đó. Căn cứ vào khả năng này, pháp luật dân sự phân biệt: người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (người thành niên, trừ người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không làm chủ nhận thức, làm chủ được hành vi của mình); người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự một phần; người do bị bệnh mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình là người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người chưa đủ 06 tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Những người có năng lực hành vi dân sự một phần, người mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người không có năng lực hành vi dân sự, muốn tham gia giao dịch dân sự phải thông qua người giám hộ hoặc được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định tại Mục 1 Chương III Bộ luật dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015.