Hệ thống pháp luật

mục đích phạm tội

"mục đích phạm tội" được hiểu như sau:

Kết quả cần đạt được mà người phạm tội đã định ra trong ý thức chủ quan của mình khi thực hiện hành vi phạm tội.Người phạm tội khi thực hiện tội phạm cố ý đều nhằm tới mục đích nhất định. Nhưng chỉ có thể nói đến mục đích phạm tội của người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp vì chỉ trong những trường hợp này người phạm tội mới có sự mong muốn gây ra tội phạm để đạt mục đích phạm tội nhất định.Ở một số tội phạm nhất định, mục đích phạm tội đã được thể hiện rõ qua hành vi phạm tội hoặc qua hậu quả phạm tội. Ví dụ: hành vi dùng vũ lực giao cấu với người phụ nữ trái với ý muốn của họ đã thể hiện rõ mục đích phạm tội của tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999) hoặc hậu quả chết người đã thể hiện rõ mục đích phạm tội của tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999). Trong những trường hợp này, mục đích phạm tội không cần phải được mô tả trong cấu thành tội phạm vì nó không cần thiết cho việc phân biệt với những tội phạm khác.Đối với những tội phạm mà dấu hiệu hành vi phạm tội cũng như dấu hiệu hậu quả của tội phạm chưa phản ánh được mục đích phạm tội chính của người phạm tội, thì việc quy định dấu hiệu mục đích vào trong cấu thành tội phạm là bắt buộc vi dấu hiệu này cần cho việc phân biệt tội phạm đó với tội phạm khác. Ví dụ: dấu hiệu mục đích chống chính quyền nhân dân phải được phản ánh trong cấu thành tội phạm của tội khủng bố (Điều 84 Bộ luật hình sự năm 1999) để phân biệt với tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999), tội cố ý gây thương tích (Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999)...