mục đích của hôn nhân
"mục đích của hôn nhân" được hiểu như sau:
Yêu cầu pháp lý và đạo lý mà những người xác lập quan hệ hôn nhân (vợ chồng) nhằm đạt tới.Theo cổ luật và tục lệ Việt Nam, việc sinh đẻ con cái, đặc biệt là con trai để nối dõi tông đường và thờ phụng tổ tiên là mục đích chủ yếu của hôn nhân. Do đó, trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều quy định người chồng có quyền bỏ vợ nếu người vợ không có khả năng sinh con. Trên quan niệm đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định cấm người bị bất lực hoàn toàn về sinh lý kết hôn. Nhưng tục lệ và quan niệm về hôn nhân Việt Nam đã dần thay đổi, việc sinh con không còn được coi là mục đích của hôn nhân nên những quy định trên trong cổ luật và Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 không còn được quy định trong các đạo luật về hôn nhân và gia đình sau này.Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân là nhằm để xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, Nếu việc kết hôn chỉ nhằm hưởng lợi về tài sản hoặc các lợi ích khác thì quan hệ hôn nhân đó không được pháp luật thừa nhận, đồng thời, nếu vợ chồng chung sống nhưng không thể xây dựng được gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững thì việc tồn tại quan hệ hôn nhân đó đã không đạt được mục đích của hôn nhân, Tòa án có thể giải quyết cho vợ chồng ly hôn nếu có yêu cầu.Mục đích của hôn nhân được pháp luật quy định, thể hiện quan điểm của Nhà nước về việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, nhằm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ. Mục đích của hôn nhân không đồng nghĩa với mục đích của việc kết hôn. Thông thường, mục đích của việc kết hôn thống nhất với mục đích của hôn nhân, nhưng cũng có trường hợp mục đích của việc kết hôn trái với mục đích của hôn nhân, như trường hợp kết hôn giả tạo...