Hệ thống pháp luật

mua bán trẻ em

"mua bán trẻ em" được hiểu như sau:

(Hành vi) dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác để trao đổi trẻ em như hàng hóa.Mua bán trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền con người của trẻ em và có thể xâm phạm đến hạnh phúc gia đình. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999, hành vi mua bán trẻ em đều được quy định là tội phạm. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 không xếp tội phạm này thuộc nhóm tội xâm phạm chế độ gia đình mà xếp vào nhóm tội xâm phạm quyền nhân thân. Theo Bộ luật hình sự năm 1999, tội phạm này đòi hỏi các dấu hiệu sau: 1) Đối tượng của tội này là người (nam hoặc nữ) chưa đủ 16 tuổi; 2) Chủ thể có hành vi mua bán (như hàng hóa) đối tượng là nam hoặc nữ chưa đủ 16 tuổi - dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác, ví dụ: vàng để đổi lấy trẻ em hoặc đổi trẻ em lấy tiền hoặc phương tiện thanh toán khác...Việc mua bán có thể xảy ra bí mật đối với người bị mua bán nhưng cũng có thể công khai và người bị mua bán có thể không đồng tình hoặc đồng tình với việc đó.Cần phân biệt tội phạm này với tội mua bán phụ nữ. Hai tội phạm này chỉ khác nhau ở đối tượng bị mua bán. Đối tượng của tội mua bán phụ nữ là nữ từ đủ 16 tuổi trở lên.Hình phạt được quy định cho tội mua bán trẻ em có mức cao nhất là tù chung thân.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.