Hệ thống pháp luật

môi giới hối lộ

"môi giới hối lộ" được hiểu như sau:

(Hành vi) làm trung gian giữa người nhận và người đưa hối lộ theo yêu cầu của một trong hai bên hoặc của cả hai.Hành vi môi giới hối lộ là hành vi tạo điều kiện cho việc đạt được sự thỏa thuận hoặc để thực hiện sự thỏa thuận về đưa và nhận hối lộ. Một số dạng việc làm cụ thể của hành vi môi giới hối lộ có thể xảy ra như giúp hai bên gặp nhau, giúp việc chuyển hoặc nhận của hối lộ... Hành vi môi giới hối lộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Do vậy, hành vi này bị Luật hình sự Việt Nam coi là tội phạm. Tuy nhiên, hành vi này chỉ được quy định là tội danh độc lập từ khi pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ năm 1981 có hiệu lực. Trước đó, Sắc luật số 03 năm 1976 chỉ quy định tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ và coi hành vi môi giới hối lộ là hành vi giúp sức nhận hoặc đưa hối lộ. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999, môi giới hối lộ đều được quy định là tội danh độc lập “tội làm môi giới hối lộ". Đặc biệt, trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội này được quy định tại một điều luật riêng với 4 khung hình phạt khác nhau và mức hình phạt cao nhất là hình phạt tù 20 năm. Theo Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 thì hành vi làm môi giới hối lộ chỉ cấu thành tội phạm khi của hối lộ có giá trị từ 500.000 đồng trở lên hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc là trường hợp vi phạm nhiều lần. Người phạm tội này có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội môi giới hối lộ được quy định tại Điều 365 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.