Hệ thống pháp luật

miễn trừ tư pháp

"miễn trừ tư pháp" được hiểu như sau:

Quyền của quốc gia không bị xét xử bởi bất kỳ cơ quan tài phán nào, dù là quốc tế hay quốc gia khác, nếu không có sự đồng ý của quốc gia đó.Miễn trừ tư pháp còn gọi là miễn trừ quốc gia. Quyền miễn trừ quốc gia là chế định pháp lý quan trọng trong tư pháp quốc tế, có lịch sử phát triển lâu đời tại nhiều nước trên thế giới. Nguyên tắc miễn trừ quốc gia vốn được đưa ra nhằm giải quyết vấn đề song trùng quyền tài phán xảy ra khi một nước ngoài xâm nhập lãnh thổ của một quốc gia thù địch và nước ngoài đó đã tự đặt mình dưới quyền tài phán của quốc gia thù địch.Có hai học thuyết về quyền miễn trừ quốc gia là thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối và thuyết miễn trừ tư pháp tương đối. Theo thuyết miễn trừ tư pháp tuyệt đối, thì một quốc gia có chủ quyền không thể bị khởi kiện ra Tòa án của một quốc gia khác nếu như không có sự đồng ý của quốc gia bị kiện. Thuyết miễn trừ tư pháp tương đối chỉ thừa nhận quyền miễn trừ quốc gia đối với các hành vi công hay có tính chủ quyền quốc gia, mà không áp dụng đối với các hành vi mang tính chất tư hay thương mại. Ngày nay, nhiều nước có xu hướng muốn áp dụng thuyết tương đối về quyền miễn trừ quốc gia. Tuy nhiên, có một điểm chung thống nhất giữa các nước là quyền miễn trừ quốc gia không áp dụng trong các vụ kiện liên quan đến bất động sản (trừ tài sản của cơ quan ngoại giao hay lãnh sự) và thừa kế trong trường hợp quốc gia khác là người thừa kế.Các nguyên tắc của học thuyết miễn trừ chủ quyền và hành động của Nhà nước đều xuất phát từ nội dung khái niệm "chủ quyền" theo luật quốc tế. Mục đích của học thuyết về miễn trừ quốc gia là nhằm tránh sự đối đầu pháp lý giữa các quốc gia có chủ quyền bất cứ khi nào có thể. Các học thuyết này một phần còn xuất phát từ việc thực hành quyền tài phán có thể kèm theo áp dụng vũ lực thể chất. Như vậy, nó còn xuất phát từ chức năng giữ gìn hòa bình của pháp luật quốc tế. Ở một số nước, quyền miễn trừ tư pháp được quy định trong luật về quan hệ với nước ngoài.Một quốc gia không còn được hưởng quyền miễn trừ tư pháp khi quốc gia ấy từ bỏ quyền đó hoặc trong một số trường hợp khác. Một quốc gia nước ngoài sẽ phải chịu quyền tài phán nếu quốc gia đó tuyên bố rõ ràng hay ngụ ý là mình từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp. Thông thường thì một khi đã từ bỏ, quốc gia đó không thể rút lại lời từ bỏ, trừ trường hợp văn bản hoặc lời tuyên bố từ bỏ có quy định việc rút lại. Sự từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia một cách chính thức khi quốc gia đó thực hiện việc từ bỏ bằng một điều ước hoặc bằng một bản hợp đồng. Còn việc từ bỏ một cách ngụ ý xảy ra khi một quốc gia nước ngoài đồng ý theo thủ tục trọng tài ở một nước khác, nhưng phán quyết trọng tài sẽ được thi hành trên lãnh thổ của quốc gia hữu quan.Quyền miễn trừ tư pháp cũng không còn được thừa nhận trong một số trường hợp liên quan đến vấn đề thương mại hay tài sản bị quốc hữu hóa. Ví dụ: theo luật pháp một số nước (như Hoa Kỳ), thì sẽ không thừa nhận quyền miễn trừ tư pháp đối với nước ngoài trong các vụ kiện liên quan đến các vấn đề: hoạt động thương mại, nếu các hoạt động thương mại đó được thực hiện hoặc có tác động trực tiếp trên lãnh thổ của quốc gia đó; yêu cầu trả lại tài sản bị quốc hữu hóa hay trưng mua trái với luật pháp quốc tế, tức là vụ kiện liên quan đến tài sản bị quốc gia đó quốc hữu hóa hoặc trưng mua một cách độc đoán hoặc không có sự đền bù; tài sản tọa lạc tại quốc gia đang thụ lý vụ kiện.