Hệ thống pháp luật

miễn tố

"miễn tố" được hiểu như sau:

Quyết định của Viện kiểm sát không truy tố một người phạm tội trước Tòa án vì thỏa  mãn những căn cứ theo luật định.Theo quy định của pháp luật (Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự), Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ được pháp luật quy định (khoản 3 đến khoản 7 Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự). Cụ thể là: người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội phạm đã được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác (Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự); hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa do sự chuyển biến của tình hình; người phạm tội đã tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm (khoản 2 Điều 25 Bộ luật hình sự); người phạm tội đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 19 Bộ luật hình sự); người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục (khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự).